PHÁC THẢO CHÂN DUNG VỊ SỨ GIẢ TIN MỪNG (6)

E. BẠN SẼ THI HÀNH SỨ VỤ NHƯ THẾ NÀO ?

 len.duong.thi.hanh.su.vu

  1. Với trái tim nhiệt thành, quả cảm và hân hoan

(Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, s. 80)

[80] … Lời kêu gọi của Ta được cảm hứng từ lòng nhiệt thành của các vị rao giảng và truyền bá Tin Mừng vĩ đại nhất đã hiến cả cuộc đời cho việc Tông đồ. Trong số đó, Ta hân hoan đề cao những vị mà trong suốt Năm Thánh Ta đã đề nghị tín hữu tôn kính. Các Ngài đã biết vượt qua nhiều trở lực để rao giảng Tin Mừng.

Thời đại chúng ta cũng có nhiều trở ngại, trong số đó Ta muốn đề cập đến việc thiếu lòng nhiệt thành. Nó càng trầm trọng hơn vì phát xuất từ bên trong. Nó biểu lộ trong sự mệt mỏi và chán chường, trong sự chiếu lệ và hờ hững, và nhất là thiếu niềm vui và trông cậy. Vậy Ta nhắn nhủ tất cả những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, dù ở địa vị hay mức độ nào cũng phải nuôi dưỡng trong mình lòng nhiệt thành (Rm 12,11).

Trước tiên, lòng nhiệt thành đòi hỏi chúng ta phải tránh lối lý luận ngụy biện có thể làm chúng ta trốn tránh việc rao giảng Tin Mừng. Nguy hại nhất chắc chắn là luận cứ mà người ta tưởng có nền tảng trong một số giáo huấn của Công đồng.

Chẳng hạn, chúng ta thường nghe nói : áp đặt một chân lý, dẫu là chân lý của Tin Mừng, cưỡng bách theo một con đường, dù là con đường cứu rỗi, đều là vi phạm tự do tôn giáo. Ngoài ra có người thêm rằng cần gì phải loan báo Tin Mừng, vì mọi người đều được cứu rỗi nếu ăn ngay ở lành. Vả lại, nếu thế giới và lịch sử tràn đầy Hạt giống của Ngôi Lời thì phải chăng không là ảo tưởng khi muốn mang Tin Mừng đến nơi đã tràn đầy những hạt giống do chính Chúa gieo vãi ?

Bất cứ ai chịu khó đào sâu những vấn nạn này trong các văn kiện Công Đồng đều thấy rằng những lý luận trên đã dựa vào Công Đồng một cách qúa hời hợt và sẽ tìm thấy một cái nhìn thực tế khác hẳn.

Áp đặt bất cứ điều gì trên lương tâm anh em chúng ta chắc chắn là một sai lầm. Nhưng, trình bày cho lương tâm này chân lý Tin Mừng và con đường cứu rỗi trong Đức Kitô một cách minh bạch, và tuyệt đối tôn trọng những lựa chọn tự do của con người, tránh “mọi cách thức hoạt động có tích cách đè nén, quyến rũ cách bất chính hay kém ngay thẳng” (X, Dig. Hu. Số 4), điều đó không phải là xâm phạm tự do tôn giáo mà chính là tôn trọng quyền tự do ấy, bằng cách tạo điều kiện để cho lương tâm chọn một con đường mà cả những người không tin cũng nhận thấy là cao thượng và phấn khởi.

Vậy có phải là vi phạm quyền tự do của người khác không nếu ta hân hoan loan báo Tin Mừng mà ta đã nhận biết nhờ tình thương của Chúa ? và vì sao chỉ có những sự dối trá, sai lầm, trụy lạc và khiêu dâm mới có quyền được trình bày và thường được áp đặt bởi sự quảng bá tai hại của các phương tiện truyền thông, bởi sự khoan dung của pháp luật, bởi sự sợ sệt của những người tốt và sự dạn dĩ của những kẻ xấu ? Phương cách trình bày về Đức Kitô và vương quốc của Ngài với một sự tôn trọng đầy đủ đối với người khác như đã trình bày ở trên không những là một quyền lợi mà hơn nữa còn là một bổn phận của người rao giảng Tin Mừng.

Đàng khác, mọi người ai cũng có quyền đón nhận nơi người rao giảng sự loan báo Tin Mừng cứu rỗi, vì mọi người đều là anh em của họ. Ơn cứu rỗi này, Thiên Chúa có thể thực hiện nơi những kẻ Ngài muốn bằng những đường lối khác thường mà chỉ mình Ngài biết được. Tuy nhiên, nếu Con của của Ngài đã đến, chính là để mạc khải cho chúng ta con đường cứu rỗi bình thường bằng lời nói và đời sống của Ngài. Và Ngài đã truyền cho chúng ta phải chuyển đạt cho kẻ khác mạc khải này với cùng một quyền lực như Ngài. Thật không phải là vô ích, nếu mỗi Kitô hữu và mỗi nhà rao giảng Tin Mừng biết đào sâu tư tưởng sau đây trong khi cầu nguyện : Con người cũng có thể được cứu rỗi bởi nhiều đường lối khác nhờ lòng thương xót của Chúa, cho dẫu chúng ta không loan truyền Tin Mừng cho họ. Nhưng chúng ta, nếu vì lười biếng, sợ sệt, hay “hổ thẹn vì Tin Mừng” (Rm 1,16), hay vì chiều theo những tư tưởng sai lầm mà chúng ta không loan truyền Tin Mừng, thì liệu chúng ta có thể được cứu rỗi không ? Vì như vậy, chúng ta phản lại lời kêu gọi của Thiên Chúa, Đấng muốn làm cho hạt giống nẩy mầm nhờ tiếng nói của các thừa tác viên Tin Mừng. Hạt giống này có thể trở thành cây lớn và nở sinh hoa trái hay không là tuỳ thuộc chúng ta.

Vậy chúng ta hãy giữ lòng nhiệt thành. Hãy bảo tồn niềm vui dịu dàng và niềm an ủi được rao giảng, ngay cả lúc phải gieo trong nước mắt. Ước gì việc rao giảng đối với chúng ta cũng như đối với Gioan Tẩy Giả, đối với Phêrô và Phaolô và các Tông đồ khác cũng như đối với vô số nhà rao giảng, đáng thán phục khác trong suốt lịch sử của Giáo Hội, ước gì việc rao giảng là một sự phấn khởi nội tâm mà không ai, không một gì có thể dập tắt được. Ước gì đó là niềm vui lớn lao của đời sống tận hiến của chúng ta. Và ước gì thế giới hôm nay đang tìm kiếm trong lo âu hoặc hy vọng, có thể đón nhận Tin Mừng, không phải từ những nhà rao giảng buồn bã hay thất vọng, bồn chồn hay lo âu, nhưng từ những thừa tác viên của Tin Mừng có đời sống đầy nhiệt thành vì đã đón nhận niềm vui của Đức Kitô và chấp nhận xem thường mạng sống để cho Nước Trời được rao giảng và Giáo Hội được ăn sâu vào giữa lòng thế giới.

  1. Với đời sống chứng tá sống động
  2. Hòa nhập đời sống xã hội và văn hóa của dân

(Trích sắc lệnh Ad Gentes, chương 4, s. 11)

[11] Ðể có thể làm chứng về Chúa Kitô một cách hữu hiệu, chính các Kitô hữu phải lấy lòng kính trọng và tình bác ái mà liên kết với những người ấy, phải biết mình là thành phần của nhóm người mình chung sống, và tham gia đời sống văn hóa, xã hội qua những giao tiếp và hoạt động khác nhau trong đời sống nhân loại, lại phải làm quen với những truyền thống dân tộc và tôn giáo của những người ấy; phải lấy làm sung sướng và kính cẩn mà khám phá ra những hạt giống Lời Chúa đang tiềm ẩn trong họ.

  1. Sự hiện diện của đức ái.

(Trích Sắc lệnh Ad Gentes, chương 4, s. 12)

[12] Sự hiện diện của các Kitô hữu giữa các nhóm người phải được sống động bằng chính tình bác ái mà Thiên Chúa đã yêu chúng ta và muốn chúng ta cũng thương yêu nhau bằng tình bác ái đó. Bác ái Kitô giáo thực sự lan tràn tới mọi người không phân biệt chủng tộc, hoàn cảnh xã hội hay tôn giáo; bác ái không cầu mong một lợi ích hay một tri ân nào. Như Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu vô vị lợi, thì các tín hữu cũng phải lấy tình bác ái mà lo lắng cho con người, bằng cách yêu mến họ với cùng một ý hướng như khi Chúa tìm kiếm con người. Do đó, như Chúa Kitô đã trải qua khắp các thị thành và làng mạc, chữa lành mọi kẻ tật nguyền, bệnh hoạn, làm dấu chỉ Nước Chúa đã đến, thì Giáo Hội cũng nhờ con cái mình mà liên kết với mọi người thuộc mọi hoàn cảnh, nhất là với những người nghèo hèn đau khổ, và tình nguyện hy sinh cho họ. Thực vậy, Giáo Hội chia vui xẻ buồn với họ, nhận biết những ước vọng và những vấn đề nhân sinh của họ, cùng chịu khổ với họ trong những lo âu về sự chết. Còn đối với những ai tìm kiếm hòa bình, Giáo Hội ao ước đáp ứng trong đối thoại huynh đệ, bằng cách mang lại cho họ hòa bình và ánh sáng phát xuất tự Phúc Âm.

  1. Đối thoại, một phương cách sống và thi hành sứ vụ.

(Trích Sứ điệp Liên HĐGM Á Châu 2012 về Canh Tân Sứ giả TM, s. 5)

[5] Công cuộc Tân Phúc âm hóa kêu gọi lấy tinh thần đối thoại thúc đẩy cuộc sống hằng ngày và chọn tương quan hòa hợp chứ không đối đầu. Ðối thoại phải là tiêu chí cho mọi hình thức thực thi sứ vụ và phục vụ tại châu Á. Ðặc trưng của đối thoại là khiêm tốn nhận ra sự hiện diện kín đáo của Thiên Chúa trong cuộc tranh đấu của người nghèo, trong sự phong phú về văn hóa của nhân dân, trong sự đa dạng về truyền thống tôn giáo và trong thẳm sâu cõi lòng mỗi người. Ðối thoại như thế là lối sống và phương cách truyền giáo của chúng ta. Ðối thoại trở thành nền tảng cho nền linh đạo hiệp thông nhằm canh tân sứ giả Tin Mừng.

  1. Hiện diện khiêm hạ.

(Trich Sứ điệp Liên HĐGM Á Châu 2012 về Canh Tân Sứ giả TM, s. 6)

[6] Chúng tôi tin rằng mỗi người châu Á đều dự phần và đồng hành trong cuộc hành trình tiến đến Nước Thiên Chúa, và tin rằng những cánh đồng truyền giáo là những thửa đất có sự hiện diện và hoạt động lạ lùng của Thánh Thần Thiên Chúa. Trên cánh đồng truyền giáo bao la tại châu Á, chứng từ lặng lẽ nhưng hùng hồn của đời sống Kitô hữu đích thực đòi phải biết hiện diện trong khiêm hạ, biết sống đối thoại, trong đó bao gồm cuộc sống cầu nguyện và “chiêm niệm”. Ðó là yêu cầu đặt ra cho các sứ giả mới của Tin Mừng, hoạt động giữa những nền văn hóa đề cao sự bỏ mình và quý trọng cầu nguyện. Sự hiện diện khiêm hạ phải được thể hiện bằng nếp sống giản dị và liên kết với người nghèo.

 

  1. Công bố Tin Mừng cách thầm lặng và mãnh liệt bằng chứng tá.

(Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nunciandi, s. 21)

[21] Chẳng hạn giữa cộng đoàn nhân loại mà họ đang sống, một Kitô hữu hay một nhóm Kitô hữu, biểu lộ khả năng cảm thông và đón nhận, chia sẻ đời sống và số phận với những người khác, tỏ tình liên đới trong những nỗ lực chung nhằm đạt được những gì là cao qúy và tốt đẹp nhất. Hoặc là, một cách thực đơn giản và tự nhiên, họ chiếu tỏa niềm tin của mình nơi những gía trị vượt xa những giá trị thông thường, niềm trông cậy vào điều mà người khác không thấy và có lẽ không dám mơ tưởng tới. Nhờ chứng tá không lời này, Kitô hữu gợi lên những vấn nạn bất khả kháng trong tâm hồn những kẻ trông thấy họ sống : Tại sao họ là những người như thế ? Tại sai họ sống như vậy ? Cái gì hoặc ai đã thôi thúc họ ? Tại sao họ ở giữa chúng ta ? Một chứng tá như vậy đã là sự công bố Tin Mừng tuy thầm lặng nhưng rất mãnh liệt và hiệu nghiệm. Đó là động tác khai mào của việc Phúc Âm hóa. Đó có thể là những vấn nạn đầu tiên mà nhiều người không thật sự là Kitô hữu đặt ra, họ là những người chưa bao giờ được nghe nói về Đức Kitô, họ là những người đã chịu phép rửa nhưng không hành đạo, họ là những người sống trong cộng đoàn Kitô hữu nhưng lại không hề theo những nguyên tắc Kitô giáo, hoặc là những vất vả tìm kiếm một cái gì hay một Đấng nào đó mà họ đoán là có, nhưng không thể biết tên là gì. Rồi sẽ có những vấn nạn khác sâu xa hơn, đòi hỏi hơn, phát sinh từ chứng tá ấy, một chứng tá bao gồm sự hiện diện, sự chia sẻ, tình liên đới. Chứng tá đó là một yếu tố chính yếu, tiên quyết của việc Phúc Âm hóa.

  1. Theo gương Chúa Kitô và sống mầu nhiệm Thập giá
  2. Linh đạo Thập giá

(Trích Sắc lệnh Ad Gentes, chương 4, s. 24)

[24]… Con người [Nhà truyền giáo] phải đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa mà hoàn toàn dấn thân phục vụ Phúc Âm, chứ không nghe theo xác thịt và máu mủ. Nhưng sự đáp lại này không thể thực hiện nếu không được Chúa Thánh Thần thúc đẩy và củng cố. Thật vậy, kẻ được sai đi phải thấm nhuần đời sống và sứ mệnh của Ðấng đã “tự hủy mình mà nhận lấy thân phận tôi tớ” (Ph 2,7). Do đó, họ phải sẵn sàng để suốt đời đứng vững trong ơn gọi của mình, phải từ bỏ mình và những gì mình có từ trước đến nay và “trở nên mọi sự cho mọi người”

Theo gương Thầy mình, Ðấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, họ phải tỏ ra ách Người êm ái và gánh Người nhẹ nhàng . Họ phải làm chứng về Chúa của họ bằng đời sống Phúc Âm đích thực, đầy kiên nhẫn, đại lượng, nhân hậu, yêu mến chân thành, và nếu cần, họ sẽ đổ máu ra. Họ sẽ nài xin Thiên Chúa lòng can đảm và sức mạnh để nhận ra nguồn vui sung mãn trong nhiều thử thách khổ tâm và thiếu thốn cực độ…

Trong khi rao giảng Phúc Âm giữa muôn dân, nhà truyền giáo phải mạnh dạn và tin tưởng làm cho người ta nhận biết mầu nhiệm Chúa Kitô mà họ là sứ giả, đến nỗi trong Người, họ dám nói như phải nói, và không xấu hổ về ô nhục của thập giá.

  1. Vai trò ngôn sứ của người truyền giáo.

( Trích (Sứ điệp Liên HĐGM Á Châu 2012 về Canh Tân Sứ giả TM, s. 7)

[7] Trở nên ngôn sứ là trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, nhận diện những nghịch lý tại châu Á và tố cáo bất cứ những gì làm suy yếu, hạ thấp giá trị và tước bỏ phẩm giá của con cái Thiên Chúa. Những sứ giả mới của Tin Mừng phải bảo vệ phẩm giá làm người của tất cả mọi người, nhất là của phụ nữ, trẻ em và những người không có đủ điều kiện sống cho ra con người trong xã hội châu Á chúng ta. Qua việc tố cáo bất công, những sứ giả mới của Tin Mừng loan báo tình yêu của Thiên Chúa, “những điều quan trọng hơn trong Lề Luật” tức là là công bình, lòng nhân từ và thành tín (Mt 23, 23), và tình yêu được Chúa Giêsu dành ưu tiên cho người nghèo.

  1. Liên đới với những nạn nhân.

( Trích Sứ điệp Liên HĐGM Á Châu 2012 về Canh Tân Sứ giả TM, s. 8)

[8] Trong Hội nghị, chúng tôi đã lưu ý con số các nạn nhân của quá trình toàn cầu hóa, của bất công, của thảm họa hạt nhân và thiên tai, của những cuộc tấn công do những kẻ cực đoan và khủng bố gây ra, con số ấy đang gia tăng từng ngày. Chúa Giêsu đứng về phía nạn nhân của các thảm họa và bất công. Người liên đới với những ai bị xã hội loại bỏ. Liên đới và xót thương những nạn nhân và bị gạt ra ngoài lề xã hội phải trở thành chiều kích chính yếu của linh đạo Tân Phúc âm hóa.

  1. Tin Mừng Đức Giêsu Kitô phải được công bố cách minh nhiên
  1. Bằng lời rao giảng và huấn giáo

(Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nunciandi, s. 22)

[22] Tuy nhiên chứng tá không thôi chưa đủ, vì chứng tá cho dù đẹp đẽ nhất sẽ trở nên vô hiệu theo thời gian, nếu nó không được soi sáng, biện minh, nghĩa là theo thánh Phêrô “đưa ra những lý lẽ cậy trông” (1P 3,15) và nếu nó không được diễn đạt bằng một sự loan báo rõ ràng, không mập mờ về Đức Kitô. Tin Mừng đã được công bố nhờ chứng tá đời sống, sớm muộn phải được công bố bằng Lời hằng sống. Không có Phúc âm hóa thật nếu danh tánh, lời giảng dạy, đời sống, lời hứa, vương quốc và mầu nhiệm của Đức Giêsu Nazarét không được công bố.

Lịch sử Giáo Hội, từ bài diễn văn của thánh Phêrô sáng ngày lễ Hiện xuống, gắn liền và đồng hóa với lịch sử của việc công bố này. Vào mỗi giai đoạn mới của lịch sử nhân loại, Giáo Hội hằng mong muốn rao giảng Tin Mừng, nên chỉ có một mối bận tâm là : Sai ai đi loan báo mầu nhiệm Đức Kitô? Dùng ngôn ngữ nào để loan truyền mầu nhiệm này ? Làm thế nào để mầu nhiệm này vang động và đi tới tai người nghe ? Việc loan báo này – nghĩa là loan truyền (Kerigme), giảng dạy, hay huấn giáo (Catéchèse) chiếm một vị trí quan trọng đến nỗi nó trở nên đồng nghĩa với việc Phúc Âm hóa.

  1. Một cuộc nói chuyện của một người mẹ

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s.139-141)

[139]. Chúng tôi đã nói rằng Dân Thiên Chúa, qua sự tác động liên tục của Chúa Thánh Thần ở trong họ, không ngừng Phúc Âm hóa chính mình. Xác tín này có ý nói gì với nhà thuyết giảng? Nó nhắc nhở chúng ta rằng Hội Thánh là người mẹ và HT giảng cho dân như một người mẹ nói chuyện với con mình, biết rằng đứa con tin rằng tất cả những gì mẹ dạy là vì muốn điểu tốt cho mình vì nó biết rằng mẹ yêu thương mình. Hơn nữa, một người mẹ tốt có thể nhận ra tất cả những gì Thiên Chúa đã gieo trồng trong con mình, lắng nghe những quan tâm của nó và học hỏi từ nó. Tinh thần yêu thương ngự trị trong một gia đình hướng dẫn cả mẹ lẫn con trong cuộc đối thoại của họ, ở đó người ta dạy và học, sửa chữa và đề cao những điều tốt. Điều tương tự cũng xảy ra trong bài giảng. Cùng một Chúa Thánh Thần, Đấng linh hứng các sách Tin Mừng và hoạt động trong dân Thiên Chúa, cũng linh hứng chúng ta để lắng nghe đức tin của dân và giảng thế nào trong mỗi Thánh Thể. Do đó, bài giảng Kitô giáo tìm thấy ở trung tâm của nền văn hóa của dân chúng một nguồn nước hằng sống, là điều giúp cho nhà thuyết giảng biết phải nói gì và tìm cách thích hợp để nói. Cũng như tất cả chúng ta đều thích được người khác nói với mình bằng tiếng mẹ đẻ của mình, vì vậy trong đức tin, chúng ta cũng muốn người ta nói bằng thuật ngữ của “văn hóa của mẹ”, bằng thổ ngữ của mẹ (x. 2 Mac 7:21, 27), và quả tim chúng ta sẵn sàng lắng nghe hơn. Ngôn ngữ này là một âm điệu truyền lòng dũng cảm, sự hứng khởi, sức mạnh và sự thúc đẩy.

[140]. Lãnh vực mẹ và Hội Thánh này, trong đó cuộc đối thoại giữa Chúa với dân Ngài xảy ra, phải được khuyến khích và nuôi dưỡng bởi sự gần gũi của nhà thuyết giảng, sự ấm áp của giọng nói, sự dịu dàng của cách nói, niềm vui của những cử chỉ của ngài. Ngay cả trong những trường hợp bài giảng có vẻ một chút thiếu hấp dẫn, nếu người nghe cảm nhận được tinh thần mẫu tử và Hội Thánh này, thì vẫn luôn luôn có kết quả, như những lời khuyên nhàm chán của một bà mẹ mang lại kết quả với thời gian trong lòng con cái.

[141]. Người ta phải ngưỡng mộ những phương tiện mà Chúa sử dụng để đối thoại với dân chúng của Người, để mặc khải mầu nhiệm của Người cho mọi người, để thu hút những người đơn thành với những giáo huấn quá cao vời và quá đòi hỏi của Người. Tôi tin rằng bí mật được giấu trong cái nhìn của Chúa Giêsu đối với dân chúng, vượt trên những yếu đuối và sa ngã của họ: “Hỡi đàn chiên bé nhỏ, đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12:32); Chúa Giêsu đã rao giảng với tinh thần ấy. Tràn đầy niềm vui trong Chúa Thánh Thần, Người chúc tụng Chúa Cha là Đấng đã kéo những người bé nhỏ lại: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con chúc tụng Cha vì Cha đã giấu không cho các người khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải chúng cho những người bé mọn” (Lc 10:21). Chúa thực sự vui lòng với cuộc đối thoại với dân của Người, và nhà thuyết giảng phải làm cho người ta cảm nhận được niềm vui này của Chúa.

  1. Những lời đốt cháy lòng người

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s.142-144)

[142]. Một cuộc đối thoại còn nhiều hơn là chỉ thông truyền chân lý. Nó được thực hiện bởi sự hứng thú khi nói và vì lợi ích cụ thể được truyền thông giữa những người thích nhau qua lời nói. Đây là một điều tốt lành không hệ tại ở các sự vật, nhưng ở những người chia sẻ với nhau trong cuộc đối thoại. Một bài giảng thuần túy về luân lý hoặc về tín lý, cũng như một bài giảng trở thành một bài thuyêt trình về chú giải Thánh Kinh, làm giảm bớt sự truyền thông giữa các tâm hồn. Sự truyền thong này xảy ra trong bài giảng và có một tính cách hầu như bí tích: “Đức tin có được là nhờ nghe, mà nghe là nghe rao giảng lời Ðức Kitô” (Rm 10:17). Trong bài giảng, chân lý được đi kèm với sự thiện và mỹ. Đây không phải là chân lý trừu tượng hay suy diễn lạnh lùng, bởi vì nó cũng truyền đạt vẻ đẹp của hình ảnh mà Chúa sử dụng để khuyến khích người ta làm điều tốt. Ký ức của các tín hữu, giống như của Đức Mẹ Maria, phải tràn đầy những điều kỳ diệu của Thiên Chúa. Được mở ra cho niềm hy vọng về một thực hành hân hoan và khả năng yêu thương được rao giảng, tâm hồn họ cảm thấy rằng từng Lời trong Thánh Kinh trước hết là một hồng ân, trước khi là một đòi hỏi.

[143]. Thách đố của một bài giảng được hội nhập văn hóa hệ tại việc công bố một tổng hợp của sứ điệp Tin Mừng, chứ không phải những ý tưởng hoặc những giá trị rời rạc. Tổng hợp của chúng ta ở đâu thì lòng chúng ta ở đó. Sự khác biệt giữa việc làm sáng tỏ một tổng hợp với việc làm sáng tỏ những ý tưởng rời rạc nhau cũng giống như giữa sự buồn tẻ và lòng nhiệt thành của tâm hồn. Nhà thuyết giảng có sứ vụ đẹp nhất và khó khăn nhất là kết hợp những trái tim thân yêu: đó là trái tim của Chúa và những trái tim của dân Người. Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Người làm cho Giao Ước giữa hai bên càng thêm vững chắc và củng cố mối dây bác ái. Trong lúc nghe giảng, trái tim của các tín hữu im lặng để nghe Chúa nói. Chúa và dân Người trực tiếp nói với nhau bằng hàng ngàn cách mà không cần trung gian. Tuy nhiên, trong bài giảng, họ muốn có một người khác phục vụ như một công cụ và diễn tả những cảm xúc của họ, để sau đó mỗi người có thể chọn cách tiếp tục cuộc nói chuyện. Lời Chúa tự bản chất là một trung gian và đòi hỏi không những chỉ có hai người đối thoại với nhau mà còn một nhà thuyết giảng đại diện, tôi tin rằng “chúng tôi không rao giảng chính mình, nhưng rao giảng Ðức Giêsu Kitô là Chúa; còn chúng tôi chỉ là đầy tớ của anh em vì Chúa Giêsu” (2 Cor 4:5).

[144]. Nói chuyện bằng trái tim không những chỉ có nghĩa là giữ cho nó rực cháy, nhưng còn cho nó được chiếu sáng bởi sự toàn vẹn của Mặc Khải và bởi con đường mà Lời Chúa đã hành trình trong lòng Hội Thánh và của dân trung thành của chúng ta trong suốt dòng lịch sử. Căn tính Kitô giáo này, như cái ôm lúc rửa tội mà Chúa Cha đã ban cho chúng ta khi còn nhỏ, làm cho chúng ta ao ước, như những đứa con phung phí – và những đứa con yêu của Đức Mẹ – một cái ôm khác, của Cha nhân từ là Đấng đang chờ đợi chúng ta trong vinh quang. Việc giúp cho dân của chúng ta cảm thấy rằng họ đang sống giữa hai cái ôm này là một nhiệm vụ khó khăn nhưng đẹp đẽ của những người giảng Tin Mừng.

  1. Sử dụng những phương tiện truyền thông đại chúng

(Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, s. 45)

[45]. Thế kỷ của chúng ta được đánh dấu bằng những phương tiện truyền thông xã hội. Vì thế, như Ta đã nhấn mạnh, lời loan báo đầu tiên, việc huấn giáo hoặc việc đào sâu đức tin tiếp theo sau đều không thể bỏ qua những phương tiện này.

Được sử dụng vào việc phục vụ Tin Mừng, những phương tiện này có khả năng mở rộng hầu như vô tận thâu nhận Lời Chúa và có thể đem Tin Mừng đến cho hàng triệu người. Giáo Hội sẽ mắc tội với Chúa nếu Giáo Hội không lợi dụng những phương tiện đó, phương tiện mà trí khôn con người không ngừng làm cho hoàn bị hơn. Nhờ những phương tiện này mà Giáo Hội công bố “trên mái nhà” (Mt 10,27) sứ điệp mà Giáo Hội đang nắm giữ. Giáo Hội xem những phương tiện này như một hình thức hiện đại và hiệu nghiệm của tòa giảng. Nhờ chúng mà Giáo Hội nói được với đám đông.

Tuy nhiên, việc sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội vào việc Phúc Âm hóa nêu lên một đòi hỏi : Đó là, qua những phương tiện này, sứ điệp Tin Mừng, dù phải đến tận các đám đông, nhưng với khả năng đạt tới lương tâm của từng người, sứ điệp phải ở lại trong từng người như một cá nhân duy nhất độc đáo, và đưa họ đến một sứ gắn bó và dấn thân hoàn toàn cá biệt cho sứ điệp Tin Mừng.

  1. Cần phải tiếp xúc cá nhân

(Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, s. 46)

[46] Chính vì thế, bên cạnh cách loan truyền Tin Mừng dưới hình thức tổng quát, còn có một hình thức khác để truyền đạt Tin Mừng vẫn còn giá trị và quan trọng: Đó là việc tiếp xúc cá nhân. Chính Giêsu đã thường thực hành phương pháp này, chẳng hạn Ngài đã đàm đạo với Nicôđêmô, với Giakêu, với người nữ Samaria, với Simon người thu thuế. Cả các tông đồ cũng làm như vậy. Thực ra có cách truyền đạt Tin Mừng nào khác hơn là truyền đạt cho người khác kinh nghiệm đức tin của chính mình ? Do đó, không nên vì sự cần thiết phải loan Tin Mừng cho quần chúng mà quên hình thức loan truyền này. Chính nhờ hình thức này mà lương tâm cá nhân của con người được chạm tới, được đánh động do lời nói khác thường mà họ nghe được nơi người khác. Chúng ta không thể kể xiết những hành động tốt lành của các linh mục, qua bí tích cáo giải hoặc qua những lần nói chuyện hướng dẫn của các ngài. Các ngài sẵn sàng hướng dẫn mọi người theo đường lối Tin Mừng, khuyến khích họ cố gắng, nâng đỡ họ chỗi dậy khi bị sa ngã và ân cần giúp đỡ họ.

  1. Đồng hành thiêng liêng

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium s.169-173)

  1. Cần giữ một khoảng cách lành mạnh

[169]. Trong một nền văn minh bị tổn thương cách nghịch lý bởi tình trạng nặc danh, và đồng thời, quá bận tâm với những chi tiết về đời sống của những người khác, và phải chịu đựng sự tò mò trơ trẽn bệnh hoạn, Hội Thánh cần một cái nhìn gần gũi để xem xét, cảm thông và ngừng lại trước những người khác mỗi khi cần thiết. Trong thế giới này, các thừa tác viên có chức thánh và những người làm mục vụ khác có thể làm cho hương thơm của sự hiện diện gần gũi của Chúa Giêsu và cái nhìn cá nhân của Người hiện diện. Hội Thánh sẽ phải hội nhập các thành viên của mình – các linh mục, tu sĩ và giáo dân – vào “nghệ thuật đồng hành” này, để tât cả mọi người học cách luôn luôn biết cởi giày của mình ở trước đất thánh của người khác (x. Xh 3:5). Chúng ta phải giữ trong cuộc hành trình của mình một khoảng cách lành mạnh, với một cái nhìn tôn trọng và đầy trắc ẩn nhưng đồng thời khuyến khích sự khỏe mạnh, tự do và trưởng thành trong đời sống Kitô hữu.

  1. Phải đưa người ta ngày càng đến gần Chúa

[170]. Mặc dù có vẻ tỏ tường là việc đồng hành tinh thần phải dẫn đưa người ta càng ngày càng đến gần Thiên Chúa hơn, trong Ngài chúng ta có thể đạt được sự tự do thật. Một số người tin rằng họ được tự do khi bước đi ngoài Chúa, mà không nhận ra rằng mình hiện sinh vẫn là kẻ mồ côi, không nơi nương tựa, không nhà để cư ngụ hay để trở về. Họ không còn là những người hành hương mà trở thành những kẻ lang thang, luôn luôn xoay xở mà không đi đến đâu. Đồng hành với họ sẽ phản tác dụng nếu nó trở thành một loại điêu trị củng cố việc đóng cửa lòng của những con người tận nội tâm của họ và đó không còn là một cuộc hành hương với Đức Kitô về cùng Chúa Cha nữa.

  1. Những điều thiết yếu nơi người đồng hành

[171]. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần những người nam nữ, là những người từ kinh nghiệm đồng hành của họ, quen thuộc với tiến trình, trong đó đòi hỏi sự thận trọng, khả năng hiểu biết, nghệ thuật chờ đợi, ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần, để tất cả cùng nhau bảo vệ đàn chiên đang trông cậy vào chúng ta, để khỏi bị những chó sói đang tìm cách làm cho nó bị tan tác. Chúng ta cần phải thực hành nghệ thuật lắng nghe, mà lắng nghe khác với nghe. Trong việc giao tiếp với người khác, điều đầu tiên là khả năng của con tim có thể tạo ra sự gần gũi, mà nếu không có nó thì không có cuộc gặp gỡ tinh thần thực sự. Việc lắng nghe giúp chúng ta tìm được những cử chỉ và lời nói thích hợp để kích hoạt tình trạng im lìm của khán giả. Chỉ qua việc lắng nghe cách tôn trọng này và khả năng thông cảm, chúng ta mới có thể tìm thấy những con đường tăng trưởng thật, chúng ta mới có thể đánh thức những ao ước về lý tưởng Kitô giáo, sự nóng lòng đáp trả trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa và ao ước phát triển cách tốt nhất những gì mà Thiên Chúa đã gieo trong cuộc đời họ. Nhưng luôn luôn với sự kiên nhẫn của những người biết điều mà Thánh Tôma dạy: ai cũng có thể có ân sủng và đức ái, nhưng không thi hành tốt các nhân đức “vì những xu hướng ngược lại” vẫn còn tồn tại. Nói cách khác, bản chất hữu cơ của các nhân đức luôn luôn và nhất thiết phải “in habitu” [ở trong thói quen], cho dù các điều kiện có thể cản trở những hoạt động của những thói quen đạo đức này. Vì vậy cần phải có “một phương pháp sư phạm đưa ra cho người ta từng bước một để chiếm hữu toàn thể mầu nhiệm”. Để đạt được một mức trưởng thành, nghĩa là để cho người ta có khả năng quyết định thật sự tự do và có trách nhiệm, thì điều cần thiết là phải có thời gian, và rất kiên nhẫn. Theo lời Chân Phước Phêrô Fabro: “Thời gian là sứ giả của Thiên Chúa.”

  1. Người đồng hành tốt

[172]. Những người bạn đồng hành phải ý thức rằng tình trạng của mỗi người trước mặt Thiên Chúa và đởi sống ân sủng của họ là một mầu nhiệm mà không ai có thể hoàn toàn biết được từ bên ngoài. Tin Mừng đề nghị chúng ta sửa chữa và giúp họ tăng trưởng dựa vào việc nhận ra những sự dữ khách quan của những hành động của họ (x. Mt 18:15), mà không phán đoán về trách nhiệm và tội trạng của họ (x. Mt 7:1; Lc 6:37). Trong mọi trường hợp, một người bạn đồng hành tốt không tuân theo thuyết định mệnh hay sự rụt rè. Người ấy luôn mời gọi người khác để cho mình được chữa lành, tự đứng dậy, ôm lấy thập giá, từ bỏ mọi sự, để luôn đi ra một lần nữa để rao giảng Tin Mừng. Kinh nghiệm cá nhân của chúng ta trong việc để cho người khác đồng hành và chăm sóc, trong việc trình bày với tất cả lòng chân thành cuộc đởi của chúng ta trước những người đồng hành với mình, sẽ dạy chúng ta kiên nhẫn và hiểu biết những người khác và cho phép chúng ta tìm cách để đánh thức trong họ sự tin tưởng, mở lòng và sẵn sàng để lớn lên.

  1. Đồng hành truyền giáo

[173]. Việc đồng hành tinh thần đích thực luôn luôn bắt đầu và tiến triển trong lãnh vực phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng. Sự liên hệ giữa Thánh Phaolô với Timôthê và Titô là một thí dụ của việc đồng hành này và việc đào tạo trong tiến trình hoạt động tông đồ. Trong khi ủy thác cho hai ông sứ vụ ngừng lại ở mỗi thành phố để “xắp đặt theo thứ tự những gì còn lại phải được thực hiện” (x. Tit 1:5;. x. 1 Tim 1:3-5), ngài cung cấp cho các ông những tiêu chuẩn cho đời sống cá nhân và cho các hoạt động mục vụ. Tất cả điều này rõ ràng khác biệt với bất cứ loại đồng hành tư tình hoặc tự mãn tự cô lập nào. Các môn đệ truyền giáo đồng hành với các môn đệ truyền giáo.

  1. Giúp khám phá Chúa, gặp gỡ Chúa
  2. Khám phá cách gặp gỡ Chúa trong Tin Mừng.

(trích Sứ điệp THĐGMTG 2012 về Tân Phúc Âm Hóa, s. 4)

[4]… Người ta sẽ tự hỏi làm thế nào thực hiện tất cả điều đó. Nó không hệ tại tạo ra những chiến lược mới như thể Tin Mừng là một sản phẩm được đặt trên thị trường các tôn giáo, nhưng là tái khám phá cách thức mà, trong đời sống của Chúa Giêsu, người ta đã đến gần Ngài và được Ngài kêu gọi, để đưa chính những hình thái này vào trong các điều kiện của thời nayChẳng hạn chúng ta nhớ lại làm thế nào Phêrô, Anrê và Gioan đã được Chúa Giêsu gọi trong khung cảnh làm việc của mình, làm thế nào Giakêu đã có thể chuyển từ sự tò mò thuần túy sang một sự chia sẻ nồng ấm bữa ăn với Thầy, làm thế nào viên bách quản ở Rôma đã xin Ngài can thiệp nhân dịp bệnh tật của một người thân, làm thế nào người mù bẩm sinh đã xin Ngài để được giải thoát khỏi việc bị đặt ra bên lề xã hội, làm thế nào Mátta và Maria đã nhận thấy sự hiếu khách của mình, nơi họ và trong tâm hồn họ, được bù lại bởi sự hiện diện của Ngài. Chúng ta có thể tiếp tục xuyên qua các trang Tin Mừng để minh họa, trong những điều kiện khác nhau, cuộc sống của con người đã được mở ra cho sự hiện diện Chúa Kitô dường nào. Chúng ta có thể làm như thế với những gì mà Thánh Kinh nói với chúng ta liên quan đến kinh nghiệm truyền giáo của các tông đồ trong Giáo Hội nguyên thủy…

… Việc đọc Thánh Kinh thường xuyên, được minh họa bởi Truyền thống của Giáo Hội mà đã truyền lại Thánh Kinh cho chúng ta và là người giải thích Thánh Kinh đích thực, không chỉ là một bước chuyển bắt buộc để biết chính nội dung của Tin Mừng, tức là con người của Chúa Giêsu trong khung cảnh lịch sử cứu độ, nhưng còn giúp chúng ta tìm ra những không gian gặp gỡ mới mẻ với Ngài, những hình thái đích thực Tin Mừng, được bén rễ trong các chiều kích nền tảng của cuộc sống con người : gia đình, công việc, tình bạn, sự nghèo khổ, những thử thách của cuộc sống, vv…

  1. Lectio Divina : đọc Kinh Thánh trong cầu nguyện

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium s.152-153)

[152]. Có một cách cụ thể để lắng nghe điều Chúa muốn nói với chúng ta trong Lời của Người và được biến Thánh Thần của Người đổi. Và đó là điều mà chúng ta gọi là “lectio divina”. Nó bao gồm việc đọc Lời Chúa để nội tâm hóa trong lúc cầu nguyện để cho Lời ấy soi sáng và đổi mới chúng ta. Việc đọc Thánh Kinh trong cầu nguyện này không phải là điều tách rời khỏi việc học hỏi các nhà giảng thuyết, được thực hiện để xác định sứ điệp chính của bản văn; trái lại, phải bắt đầu từ đó, để cố gắng khám phá điều mà chính sứ điệp nói với đời sống của mình. Việc đọc sách thiêng liêng của một văn bản phải bắt đầu từ nghĩa đen của nó. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng làm cho văn bản nói những gì chúng ta nghĩ là thuận tiện, những gì xác nhận những quyết định có trước của mình, thích nghi với tư duy của mình. Điều này, cuối cùng, sẽ như sử dụng một sự gì thánh để tìm tư lợi và chuyển sự mơ hồ như thế sang dân Thiên Chúa. Đừng bao giờ quên rằng đôi khi “ngay cả Satan cũng cải trang thành một thiên thần ánh sáng” (2 Cor 11:14).

[153]. Trong sự hiện diện của Thiên Chúa, khi bình tĩnh đọc bản văn, thật tốt để chúng ta hỏi, chẳng hạn như: “Lạy Chúa, bản văn này nói gì với con? Chúa muốn con thay đổi điều gì trong đời con với sứ điệp này? Điều gì làm tôi khó chịu trong văn bản này? Tại sao tôi không quan tâm đến điều này?” Hoặc, “Tôi thích gì, điều gì thúc đẩy tôi trong Lời này? Điều gì thu hút tôi? Tại sao nó thu hút tôi?” Khi cố gắng để lắng nghe Chúa, chúng ta thường có những cám dỗ. Một trong chúng chỉ đơn thuần là khó chịu hoặc cảm thấy bị áp bức, và tự khép kín trong chính mình; một cám dỗ rất phổ thông là bắt đầu suy nghĩ về những gì văn bản nói đến người khác, để tránh áp dụng nó vào cuộc sống của mình. Điều cũng xảy ra là người ta bắt đầu tìm lý do để cho phép họ nhận chìm sứ điệp cụ thể của một văn bản. Đôi khi chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa đòi chúng ta một quyết định quá lớn, mà chúng ta chưa có điều kiện để thực hiện. Điều này dẫn đến việc nhiều người mất niềm vui của việc gặp gỡ Lời Chúa, nhưng điều ấy có nghĩa là quên rằng không ai là kiên nhẫn hơn Thiên Chúa Cha, rằng không ai hiểu và biết cách chờ đợi hơn Ngài. Ngài luôn luôn mời gọi chúng ta bước lên một bước về phía trước, nhưng không đòi hỏi một câu trả lời đầy đủ nếu chúng ta chưa bước đi trên con đường làm cho nó khả thi. Ngài chỉ đơn thuần muốn chúng ta nhìn một cách trung thực vào cuộc sống hiện tại của mình và trình diện chính mình mà không không giả tạo trong đôi mắt của Ngài, rằng chúng ta sẵn sàng tiếp tục lớn lên, và cầu xin Ngài những gì chúng ta vẫn chưa nhận được.

  1. Tạo điều kiện gặp gỡ Chúa trong cộng đoàn, trong phụng vụ

(Trích Sứ điệp THĐGMTG 2012 về Tân Phúc Âm Hóa, s. 3)

[3]… Giáo Hội là không gian được Chúa Kitô ban tặng trong lịch sử để chúng ta  có thể gặp gỡ Ngài, bởi vì Ngài đã giao phó cho Giáo Hội Lời của Ngài, phép Rửa tội làm cho chúng ta trở thành con Thiên Chúa , Mình và Máu Ngài, nhất là ân sủng tha thứ tội lỗi trong bí tích Hòa giải, kinh nghiệm về một sự hiệp thông là sự phản ảnh chính mầu nhiệm của Chúa Ba Ngôi, sức mạnh của Chúa Thánh Thần khơi lên đức ái đối với mọi người.

… Cần phải tạo điều kiện cho các cộng đoàn ân cần niềm nở, trong đó tất cả những người bị loại trừ được cảm thấy nơi chính mình, những kinh nghiệm hiệp thông cụ thể, mà, với sức mạnh nồng nhiệt của tình yêu–, “Hãy xem họ thương yêu nhau biết bao!” (Tertulianô, Apologétique, 39, 7) – lôi cuốn cái nhìn tuyệt vọng của con người hiện đại. Vẻ đẹp của đức tin phải chiếu sáng cách riêng nơi những hoạt động của phụng vụ thánh, trước tiên trong Thánh lễ Chúa Nhật. Chính trong các buổi cử hành phụng vụ mà trên thực tế Giáo Hội biểu lộ khuôn mặt công trình của  Thiên Chúa của mình và làm cho ý nghĩa của Tin Mừng nên hữu hình, bằng lời nói và những cử chỉ.

  1. Xây dựng cộng đoàn hiệp nhất và truyền giáo
  2. Kiên trì xây dựng một cộng đoàn Dân Chúa yêu thương

(Trích Sắc lệnh Ad Gentes, chương 4, s. 25)

[25] Thấm nhuần đức tin sống động và đức cậy vững vàng, nhà truyền giáo phải là con người cầu nguyện; phải được nung đúc bằng tinh thần can đảm, yêu thương và độ lượng ; phải học quen tự túc trong mọi hoàn cảnh; phải lấy tinh thần hy sinh mà mang trên mình cuộc tử nạn của Chúa Giêsu để sự sống Chúa Giêsu tác động trong những người họ được sai đến ; vì lòng nhiệt thành với các linh hồn, họ phải tự nguyện hy sinh mọi sự và tận hiến chính bản thân cho các linh hồn, để như vậy họ “gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hằng ngày”.

… họ phải mau mắn khởi xướng, kiên trì hoàn tất công việc, bền chí trong khó khăn, nhẫn nại và can đảm chịu đựng nỗi cô quạnh, sự mệt nhọc và những cố gắng vô hiệu. Họ sẽ đến cùng mọi người với tâm hồn rộng mở, với con tim bao dung, tình nguyện lãnh nhận nhiệm vụ được giao phó, quảng đại thích nghi cả với những phong tục khác thường của các dân tộc và những điều kiện sinh hoạt đổi thay, đồng tâm, tương ái cộng tác với anh em và mọi người đang hiến thân cho cùng một công việc, để theo gương cộng đoàn thời các Tông Ðồ, họ cùng với các tín hữu họp thành một con tim và một tâm hồn duy nhất…

  1. Gây dựng cộng đoàn rao giảng TM

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s.46)

[46]… Cộng đồng rao giảng Tin Mừng cảm nghiệm được rằng Chúa đã đi bước trước, Người đã đi trước vì yêu (x. 1 Ga 4, 10), và vì thế, cộng đồng biết đi về phía trước, biết làm thế nào để đi bước trước mà không sợ hãi, đi ra gặp gỡ, tìm kiếm những người xa cách mình, và đến ngã ba đường để mởi những ngưởi bị ruồng bỏ. Cộng đồng sống một ước muốn vô tận để ban tặng sự thương xót, là kết quả của kinh nghiệm lòng thương xót của Chúa Cha và sức mạnh của sự lan tỏa của lòng thương xót này. Chúng ta hãy cố gắng chủ động nhiều hơn một chút! Do đó, Hội Thánh biết “tham gia”. Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ. Chúa đã tham gia và tự ý tham gia, khi Người quỳ trước mặt những người khác để rửa chân cho họ. Nhưng ngay sau đó, Người bảo các môn đệ: “Phúc cho các con, nếu các con làm điều này” (Ga 13:17). Cộng đồng rao giảng Tin Mừng, qua việc tham gia vào cuộc sống hằng ngày của những người khác bằng việc làm và cử chỉ của mình, nó rút ngắn những khoảng cách, tự hạ mình xuống đến nỗi chịu sỉ nhục nếu cần, và chấp nhận đời sống con người, chạm đến thân xác đau khổ của Đức Kitô trong những người khác. Vì thế, các nhà truyền giáo có “mùi của con chiên” và chiên nghe tiếng họ. Sau đó, cộng đồng truyền giáo phải “đồng hành”. Cộng đồng đồng hành với nhân loại trong tất cả mọi tiến trình của nó, bất kể khó khăn và kéo dài đến đâu đi nữa. Cộng đồng biết chờ đợi lâu dài và kiên trì tông đồ. Truyền giáo cần rất nhiều kiên nhẫn, cùng coi thường những giới hạn thời gian. Trung thành với hồng ân của Chúa, cộng đồng cũng biết “sinh hoa quả”. Cộng đồng rao giảng Tin Mừng luôn luôn chú ý tới những hoa quả, bởi vì Chúa muốn có hoa quả. Nó chăm sóc cho các hạt giống và không bị mất bình an vì cỏ lùng. Người gieo giống khi thấy cỏ lùng mọc lên giữa những cây lúa thì không oán trách hay có phản ứng mạnh. Người ấy tìm thấy một cách để đảm bảo rằng Lời Chúa được nhập thể trong một hoàn cảnh cụ thể và sinh hoa quả của đời sống mới, cho dù nó dường như chưa hoàn hảo và đầy đủ. Người môn đệ có thể hiến trọn cuộc đời mình, thậm chí chấp nhận tử vì đạo, như một nhân chứng của Đức Chúa Giêsu Kitô, nhưng ước mơ của họ không phải là có nhiều kẻ thù, mà đúng hơn là thấy Lời Chúa được đón nhận và quyền năng giải phóng và canh tân của nó được tỏ lộ. Cuối cùng, cộng đồng rao giảng Tin Mừng đầy niềm vui, luôn luôn biết “ăn mừng”. Cộng đồng ăn mừng vì mỗi chiến thắng nhỏ, vì mỗi bước tiến trong việc truyền giáo. Việc truyền giáo vui tươi thành vẻ đẹp trong phụng vụ, trong đòi hỏi hàng ngày của việc tiến bộ tốt. Hội Thánh Phúc Âm hóa và chính Hội Thánh được Phúc Âm hóa bằng vẻ đẹp của phụng vụ, và phụng vụ cũng là cử hành những hoạt động truyền giáo và nguồn mạch canh tân việc tự hiến của mình.

  1. Gầy dựng giáo xứ hướng về truyền giáo

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 215)

[215]. Giáo xứ không phải là một cơ quan lỗi thời; chính vì nó có sự uyển chuyển lớn lao, nên nó có thể mặc lấy nhiều hình thức rất đa dạng là điều đòi hỏi phải có sự dễ uốn nắn và sáng tạo truyền giáo của cha sở và cộng đoàn. Trong khi chắc chắn rằng nó không phải là cơ quan truyền giáo duy nhất, nếu nó có thể canh tân và thích nghi liên tục, nó sẽ tiếp tục là “Hội Thánh sống động giữa những căn nhà của con cái trai gái mình”. Điều này có nghĩa rằng nó thực sự là sự liên lạc với gia đình cùng cuộc sống của dân chúng, và không trở thành một cơ quan vô dụng tách biệt khỏi dân chúng, hoặc một nhóm người ưu tuyển chỉ biết đến mình. Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh trong một lãnh thổ, một môi trường để lắng nghe Lời Chúa, để lớn lên trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, để rao giảng, để làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành. Qua tất cả các hoạt động của mình, giáo xứ khuyến khích và đào tạo các thành viên của mình thành những nhà truyền giáo. Nó là một cộng đồng của các cộng đồng, là chỗ tạm trú nơi mà những người khát đến uống nước để tiếp tục cuộc hành trình, và một trung tâm nhà truyền giáo liên tục đi ra. Nhưng chúng ta phải thú nhận rằng lời kêu gọi xét lại và canh tân giáo xứ chưa đủ để đem chúng đến gần hơn với dân chúng, làm cho chúng thành nơi hiệp thông sống động và tham gia, cùng quy hướng chúng hoàn toàn vào việc truyền giáo.

  1. Trong Thánh Thần của Đức Chúa Phục Sinh

 

  1. Đức Kitô Phục Sinh là nguồn gốc sâu xa của mọi niềm hy vọng

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 275)

[275].Một số người không tận tâm với sứ vụ bởi vì họ tin rằng không gì có thể thay đổi được, và do đó đối với họ, phấn đấu là điều vô ích. Họ nghĩ như thế này: “Tại sao tôi phải tước đi sự thoải mái và thú vui của tôi nếu tôi không nhìn thấy một kết quả đáng kể nào”. Với não trạng này thì chúng ta sẽ không tài nào truyền giáo được. Thái độ này là một lý do xấu để biện minh cho việc vẫn còn khép mình trong sự thoải mái, lười biếng, buồn rầu vì không thỏa mãn tính ích kỷ trống rỗng của mình. Nó là một hành vi tự hủy diệt vì “con người không thể sống mà không có hy vọng: đời sống sẽ trở nên vô nghĩa và không thể chịu nổi”. [211] Nếu chúng ta nghĩ rằng mọi sự sẽ không thay đổi, chúng ta hãy nhớ rằng Đức Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi cùng sự chết và có đầy đủ quyền năng. Đức Chúa Giêsu Kitô thật sự đang sống. Bằng không, “nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi là trống rỗng” (1 Cor 15:14). Tin Mừng cho chúng ta biết rằng khi các môn đệ đầu tiên đi rao giảng, “Chúa đã làm việc với các ông và xác nhận lời rao giảng của các ông” (Mc 16:20). Điều này xảy ra ngay cả ngày nay. Chúng ta được mời gọi để khám phá ra điều này và sống với điều này. Đức Kitô Phục Sinh và vinh quang là nguồn gốc sâu xa của niềm hy vọng của chúng ta, và chúng ta đừng bỏ lỡ sự giúp đỡ của Người để hoàn thành sứ mệnh được trao phó cho chúng ta.

  1. Sức sống của Đấng Phục Sinh đã thấm nhập vào thế giới

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 276)

[276]. Việc Phục Sinh của Người không phải là một điều trong quá khứ; nó chứa đựng một sức sống đã thấm nhập thế gian. Ở đâu mọi sự dường như đã chết, thì khắp nơi mầm non của sự sống lại đột nhiên xuất hiện. Đó là một sức mạnh vô song. Đúng là nhiều lần dường như không có Thiên Chúa: chúng ta thấy sự bất công, gian ác, thờ ơ và tàn nhẫn không thuyên giảm. Nhưng chúng ta cũng không kém chắc chắn rằng ở giữa bóng tối luôn luôn bắt đầu nở ra một điều gì đó mới, sớm hay muộn cũng sinh hoa trái. Trong một cánh đồng bằng phẳng sự sống xuất hiện, kiên trì và không gì có thể thắng nổi. Sẽ có nhiều điều xấu, nhưng điều tốt luôn luôn có khuynh hướng quay lại nở hoa và lan tràn. Mỗi ngày trên thế giới cái đẹp tái sinh, mọc lên được biến đổi qua những thảm kịch của lịch sử. Các giá trị luôn luôn có khuynh hướng xuất hiện trở lại dưới những hình thức mới, và thực ra, nhân loại được tái sinh nhiều lần từ những tình trạng dường như không thể đảo ngược được. Đây là sức mạnh của sự sống lại và mỗi người rao giảng Tin Mừng là một công cụ của động năng này.

  1. Những giờ phút mệt mỏi, yếu lòng…

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium,  s. 277)

[277]. Những khó khăn mới cũng liên tục xuất hiện, những kinh nghiệm thất bại, những sự nhỏ nhen của con người tạo nên quá nhiều sự dữ. Tất cả chúng ta đều biết từ kinh nghiệm rằng đôi khi một công tác không đem lại cho chúng ta sự thỏa mãn mà chúng ta mong ước, thành quả hiếm hoi, và những thay đổi thì chậm chạp, và chúng ta bị cám dỗ trở nên mệt mỏi. Tuy nhiên, khi một người vì mệt mỏi mà tạm thời hạ tay xuống thì khác với những người buông xuôi vì bị khống chế bởi bệnh bất mãn kinh niên và bởi sự lười biếng làm khô héo linh hồn. Điều có thể xảy ra là tâm hồn mệt mỏi trong cuộc chiến đấu bởi vì chúng ta thực ra chỉ nghĩ đến mình, đến danh vọng, như khao khát được người khác biết đến, được ca tụng, được thưởng và có địa vị. Khi ấy chúng ta không hạ thấp nổi cánh tay, nhưng chúng ta cũng không còn kiên quyết, sự sống lại không có ở đó. Như vậy, Tin Mừng, là sứ điệp đẹp nhất mà chúng ta có trong thế giới này, vẫn còn bị chôn vùi dưới một đống lý do để tự bào chữa.

  1. Tin rằng Nước TC đang hiện diện .

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 278)

[278]. Đức tin có nghĩa là tin vào Thiên Chúa, tin rằng Ngài thực sự yêu thương chúng ta, tin rằng Ngài hằng sống, rằng Ngài có thể can thiệp một cách mầu nhiệm, rằng Ngài không bỏ rơi chúng ta, rằng Ngài có thể rút ra sự tốt lành từ sự dữ bởi quyền năng và óc sáng tạo vô biên của Ngài. Nó có nghĩa là tin rằng Ngài tiến bước khải hoàn trong lịch sử cùng với “những người thuộc về Ngài… những người được gọi, và được chọn, là các tín hữu” (Kh 17:14). Chúng ta tin rằng Tin Mừng nói rằng Nước Thiên Chúa đã hiện diện trong thế gian, và đang phát triển ở đây và ở đó, bằng nhiều cách khác nhau: như hạt giống nhỏ có thể biến thành một cây lớn (x. Mt 13:31-32), như một ít men làm dậy men cả một đống bột (x. Mt 13:33), và như hạt giống tốt mọc ở giữa cỏ dại (x. Mt 13:24-30), và có thể luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên cách thú vị. Nước Thiên Chúa đang hiện diện, sẽ trở lại, phấn đấu để phát triển mạnh mẽ trở lại. Sự Sống Lại của Đức Kitô tạo ra ở mọi nơi những hạt giống của thế giới mới này; và ngay cả khi chúng bị cắt đi, chúng lại mọc lên, bởi vì sự Phục Sinh của Chúa đã thâm nhập vào cơ cấu tàng ẩn của lịch sử này, bởi vì Chúa Giêsu đã không sống lại một cách vô ích. Chớ gì chúng ta đừng ở bên lề cuộc hành trình hy vọng được sống này!

  1. “Một cảm thức mầu nhiệm”

(Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, s. 279)

[279]. Vì chúng ta không luôn luôn nhìn thấy những chồi non, nên chúng ta cần một sự chắc chắn nội tâm, đó là, lòng tin tưởng rằng Thiên Chúa có thể hoạt động trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ngay cả giữa những thất bại tỏ tưởng, bởi vì “chúng ta có kho báu này trong những bình sành” (2 Cor 4:7). Sự chắc chắn này là điều được gọi là “một cảm thức mầu nhiệm.” Đó là biết một cách chắc chắn rằng tất cả những ai phó thác cho Thiên Chúa trong tình yêu, nhất định sẽ sinh hoa kết quả (x. Ga 15,5). Khả năng sinh hoa quả này thường vô hình, khó nắm bắt và không thể đo lường được. Chúng ta có thể biết rõ rằng cuộc sống của mình sẽ mang lại kết quả, nhưng không tự nhận rằng mình biết thế nào, ở đâu và khi nào. Chúng ta có thể chắc chắn rằng không một việc nào chúng ta làm vì yêu, hoặc bất cứ hành động nào chúng ta làm vì chân thành lo lắng cho tha nhân sẽ bị mất đi. Không một hành động yêu mến nào dành cho Thiên Chúa sẽ bị mất đi, không một cố gắng đại lượng nào sẽ ra vô nghĩa và không một kiên nhẫn đau khổ nào sẽ ra vô ích. Tất cả mọi sự đi vòng quanh thế giới của chúng ta như sức sống. Đôi khi những nỗ lực của chúng ta dường như không đem lại một kết quả nào, nhưng việc truyền giáo không phải là một thương vụ hoặc một kế hoạch kinh doanh, nó cũng không thậm chí là một tổ chức nhân đạo, không phải là một buổi trình diễn để đếm xem có bao nhiêu người tham dự nhờ việc tuyên truyền của chúng ta; nó là một điều gì đó sâu xa hơn nhiều, vượt ra ngoài tất cả mọi đo lường. Có lẽ Chúa dùng sự dấn thân của chúng ta để đổ phúc lành xuống một nơi nào khác trên thế giới mà chúng ta sẽ không bao giờ đi đến. Chúa Thánh Thần hoạt động như Ngài muốn, khi Ngài muốn và ở nơi nào Ngài tùy ý Ngài; chúng ta tận tâm hy sinh nhưng không mong thấy kết quả tỏ tường. Chúng ta chỉ biết rằng việc hiến thân của mình là điều cần thiết. Chúng ta hãy học nghỉ ngơi trong vòng tay âu yếm của Chúa Cha, giữa cuộc dấn thân sáng tạo và quảng đại của mình. Chúng ta hãy tiếp tục tiến bước, hãy dâng tất cả cho Ngài, nhưng hãy để cho Ngài làm cho những nỗ lực của chúng ta có kết quả như ý Ngài.

Kiểm tra tương tự

Chúa ơi, bây giờ con phải làm gì ?

  “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?” (Lc3,10-18)   Trong đoạn Tin Mừng …

Sinh Nhật Chúa Giêsu và câu chuyện Giáng Sinh

  Tại sao Sinh Nhật của Chúa Giêsu được gọi là Giáng Sinh?   Thuật …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *