Lời tựa:
Alexandre De Rhodes, một thừa sai Dòng Tên, đã gắn bó mật thiết với Đại Việt trong hành trình truyền giáo từ năm 1624 đến 1645. Hành trình của thừa sai Alexandre De Rhodes đã kinh qua nhiều bước thăng trầm với nhiều lần bị trục xuất khỏi Đại Việt. Sau đó, vị thừa sai có vẽ một bản đồ về Đại Việt, cung cấp thêm cho thế hệ mai hậu những thông tin bổ ích về địa lý, văn hóa Đại Việt thời bấy giờ. Tuy nhiên, bản đồ ấy khá giống với bản đồ Hồng Đức (được vẽ năm 1490); có nhiều người cho rằng Alexandre De Rhodes đã tham chiếu bản đồ Hồng Đức khi vẽ bản đồ của mình. Xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu ((người chuyên nghiên cứu về các bản đồ, địa bạ cổ) – hiện tại nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu có khoảng 3000 bản đồ trong bộ sưu tập của mình) như là một câu trả lời cho thắc mắc ấy.
Chúng tôi phỏng đoán bản đồ De Rhodes 1650 (bđ DR) đã vẽ theo mẫu Bản đồ Hồng Đức 1490 (bđ HD), (xin tạm bỏ qua vấn đề tác giả và thời điểm vẽ bđ HD). Vì mấy lí do chính sau:
1. Phương hướng đặt bản đồ
Bđ DR bắt chước bđ HD đặt phương Tây lên trên, phương Đông bên dưới, phương Bắc bên phải và phương Nam bên trái. Tôi chưa từng thấy một bản đồ nào do Âu hay Á vẽ nước ta xưa kia lại có định hướng như vậy. Tất cả đều để phương Bắc 1ên trên .
2. Hai bản đồ đều dùng quốc hiệu An Nam
Trong lời giải thích “An Nam đồ thuyết” kèm theo bđ HD nói rõ An Nam chi địa. Trên góc tây bắc bđ DR có ghi trong khung chữ Regnũ An nam (nước An Nam). Cho tới thời điểm (1650), tất cả các bản đồ Tây phương vẽ nước ta đều ghi quốc hiệu là Cauchychina, Cochinchina tức Giao Chỉ Chi Na hay đúng hơn là Giao Chỉ gần Tần.
3. Những đường nét và bố cục chính
Hầu như giống nhau, chỉ khác là bđ HD vẽ bằng bút lông chú thích chữ Hán, bđ DR vẽ bằng bút sắt chú thích chữ La tinh hay chữ Quốc ngữ cổ. Phía trên bản đồ là núi non, ở giữa là bình nguyên, phía dưới là biển cả. Bđ HD ghi Tây giáp Ai Lao giới thì bđ DR ghi Laorum pars, bên phải một trường thành, bđ HD ghi Vân Nam thì bản đồ DR ghi Cinoe pars. Bản đồ HD ghi Bắc giáp Quế Quản, Quảng Tây (Bách Việt địa), Quảng Đông (Việt địa Triệu Vũ đế đô) thì bđ DR chỉ ghi Provincia Canton, Macao và Sepul. S.Xaveril (mộ thánh Savie). Bđ HD ghi Tây giáp Lung Lang giới thì bđ DR ghi Cambogiac pars (có lẽ Lung Lang phiên âm tên Panduranga, một xứ của Champa). Bđ HD ghi Chiêm Thành thì bđ DR ghi Ciampa. Bđ HD ghi Thạch Bi thì bđ DR ghi Ponta da Varella và thêm dinh Pho An (Phú Yên) .
4. Địa bàn các thừa tuyên (sau là tỉnh) cũng giống nhau
Kể từ Nam ra Bắc : Quảng Nam (bđ DR ghi Ciam và thêm cả Quangnghia, Quinhin), Thuận Hóa (bđ DR ghi Thoan hoa và thêm địa danh Hoa tức Huế, rồi Bochinh tức Bố Chính), Nghệ An (Nghe an), Thanh Hóa (Thinh hoa), Sơn Nam (Ke nam), Trung Đô (nay là Hà Nội, bđ DR ghi Kecio tức Kẻ Chợ và bên kia sông bo de tức Bồ Đề), Hải Dương (Ke dom, tức Kẻ Đông), Kinh Bắc (KeBac), Sơn Tây (Ke Tay), Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, An Bang kim An Quảng (bđ DR đều thiếu) .
Bđ HD còn ghi những địa danh mà bđ DR không ghi lại như Tây Kinh, Na Sơn, Hy Mã Sơn, An Hoạch Sơn, Hồ Lĩnh Sơn Thiên Cầm Sơn, Tượng Sơn, Phổ Minh Tự, Thiên Cầm Sơn Thập Châu, Ngải Sơn, Bạch Thành, Tản Viên Sơn, Ngưu Dương Động, phật Tích Sơn, Câu Lậu Sơn, Hùng Vương Sơn, Lũng Sơn, Tây Hồ, Lý ông Trọng Miếu, Lịch Sơn, Phụng Dục Sơn Bông Sơn, Nam Xương Châu, Thiên Đức Quang, làm Ngưu Sơn, Tiên Du Sơn, Lục Đầu Quang, Phả Lại Tự, An Tử Sơn An Thù Sơn, Quỳnh Lâm Tự, Mẫu Đơn, Côn Sơn, ải Quan, An Kỳ Sinh đắc đạo xứ, Hồng Đàm, Vân Đồn Sơn, Đại Viên Sơn, Nam Cương, Đồng Trụ giới, Bắc Cương, Phân Mao Lãnh. Còn Đại Hải thì bđ DR ghi là Mare Cinicum, đảo Khai Lan thì bđ DR ghi là Hainan (Hải Nam).
Tuy nhiên, bđ DR có ghi những địa danh mà bđ HD không ghi (kể từ trên xuống dưới và từ nam ra bắc.): Solitudo (Hoang địa), Rumoi (xứ mọi hay Rú mọi), Ran Ran (phủ Phú Yên có sông Đà Rằn), Nuoc Ngot (nước Ngọt), Nuoc Man (Nước Mặn), Ben da (Bến đá), pullucambi (Cù lao Xanh), Cuadai (Cửa Đại), Pulocatà-colaure (Cù lao Rẻ), Bá Linh, Ciam (xứ Quảng Nam), Dinh ciam (Dinh Chiêm), Haifo (Hoài Phố, Hội An nay), pulociampello (Cù lao Đại Chiêm), Cuahan (Cửa Hàn, Đà Nẵng nay), Dinh Ca (Dinh Cả), Hoa (Huế), Cua Say (Cửa Thầy), Dinh coù (Dinh Cũ), Ke dai (?), Vang nai (Hoàng Mai), Cua bang (Cửa bạng), Van no (Văn Nho), An nuc (An Vực), Diên pho (Diễn phố), Cua bic (Cửa Bích), Cua dai (Cửa Đáy) Ke bo (Kẻ Vó) , Non khe (Kẻ Non), Ke voy (Kẻ Vồi) , Ha hoy (Hà Hồi), Kemaoc (Kẻ Mác, Ô Đống Mác), Ke tru (Kẻ Trừ) , Kecou (?) , Kecoc (Kẻ Cóc), Chamha (Châm Hạ) , Da ngon (?), Longuam (?) Kemua (Kẻ Mua), Dai tiên (?), Chin tan (?) , Caubang (Cao bằng) , Trang tay (?), Thich (?), Phoi Ke (?) , Den ho i (?), Tam dang (?), Ke go (?), Ke fau (Kẻ Sau) , Ke Fuoc (Kẻ Trước) . . .
Nói chung, hai bản đồ này giống nhau về cơ bản địa lý tự nhiên và địa lý chính trị (quốc hiệu, các xứ thừa tuyên), nhưng bđ HD ghi chú nhiều di tích văn hóa và lịch sử, còn bđ DR thì ghi khá đầy đủ cửa biển và các thị trấn truyền giáo. Bđ DR vẽ theo phương pháp khoa học mới, nghĩa là theo tọa độ các đường kinh tuyến và vĩ tuyến. Tuy nhiên, bđ DR vẽ bờ biên vịnh Bắc Việt không đúng bằng bđ HD.
Trước bđ DR 1650, Tây phương chỉ biết nước ta ở ngoài bờ biển và các hải đảo. Họ vẽ bờ biển Đàng Trong đúng hơn Đàng Ngoài vì ít lui tới Đàng Ngoài. Do đó, bđ DR cũng theo họ mà vẽ sai vịnh Bắc Việt, nhưng đã thêm được khá nhiều địa danh bên trong từ bờ biển lên tới cao nguyên. Ngoài ra, bđ DR đã ghi khá chính xác là ranh giới “Cua Say” chia nước làm hai phần: Tun Kin tức Đàng Ngoài và Cocincina tức Đàng Trong thật rõ ràng
Bản đồ Alexandre De Rhodes 1650 là bản đồ duy nhất của Tây phương đã căn cứ vào Bản đồ Hồng Đức 1490, giúp cho độc giả hiểu biết tương đối đúng đắn đất nước ta ở bốn thế kỷ XV, XVI, XVII và XVIII vậy.
(Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu)