Đứng trước dây thòng lọng tại giá treo cổ ở thành phố Glassgrow, cha Gioan Ogilvie, 36 tuổi, hỏi viên chánh án:
- Có thật là nếu tôi bỏ Hội Thánh công giáo, tôi sẽ được làm con rễ của Tổng Giám Mục, và được hưởng bổng lộc không?
- Đúng như vậy.
- Tôi không bị kết án là phản quốc nữa chứ?
- Chắc chắn rồi.
- Thế là tôi bị xử tử vì lý do tôn giáo. Nếu vậy, dù phải chết ngàn lần, tôi cũng sẵn lòng. Ai muốn tước đoạt mạng sống của tôi thì cứ làm, nhưng đức tin của tôi thì không ai bẻ cong được đâu.
Cha Gioan Ogilvie sinh năm 1579 tại Drumna Keith In Banffshire, xứ Scotland, trong một gia đình quý phái theo đạo Tin Lành và được giáo dục trong một nhà trường Tin lành.
Năm 16 tuổi, ngài được gia đình gởi sag học ở Bỉ. Nhờ một linh mục hướng dẫn, ngài trở lại với Hội Thánh, rồi gia nhập Dòng Tên. Ngài là một linh mục nhiệt thành, đôi khi mơ mộng và liều lĩnh. Ngài có cách nói dí dỏm, nên rất dễ gần gũi dân chúng. Thấy tại quê hương, đồng bào Công giáo bị nhà cầm quyền làm khổ đủ cách như tịch thu tài sản, giam giữ, và có người bị xử tử nữa, lại thiếu linh mục để chăm sóc đời sống thiêng liêng, ngài xin nhà Dòng cho phép về giúp đồng bào. Năm 1613, cải trang thành một sĩ quan, ngài cùng về Scotland với hai linh mục khác ăn mặc như thường dân.
Ban đầu, ngài ở trên vùng cao nguyên, sau đó về thành phố Edinburgh. Trên giấy tờ, ngài là đại úy Watson, bên ngoài là một lái buôn ngựa. Ban ngày ngài găp gỡ riêng từng người, ban đêm ngài dạy giáo lý, hướng dẫn cầu nguyện, ban các bí tích và cử hành thánh lễ với từng cộng đoàn nhỏ các tín hữu. Sống âm thầm lặng lẽ được ít lâu, ngài nảy ra ý định đến Luân Đôn thuyết phục triều đình tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng bề trên không đồng ý. Ngài mở rộng tầm hoạt động đến thủ phủ Glasgow cách Edinburgh cả trăm cây số, làm như không có gì phải e dè. Một lần được biết có 5 người Tin Lành ở Glasgow muốn trở về công giáo, ngài tìm đến họ thì bị bắt.
Trong sáu tháng giam giữ, ngài bị tra hỏi nhiều lần, bị ép nhận có tham gia vào một âm mưu chống lại chính quyền, mà thực ra ngài không hề biết. Trước tòa án, ngài tuyến bố: “Nếu mỗi sợi tóc của tôi là một linh mục, thì mọi sợi tóc cũng về Scotland với tôi.” Tại giá treo cổ ngài tuyên bố với mọi người: “Tôi đặt trọn niềm hy vọng nơi Chúa nhân lành và Máu châu báu của Đức Ki-tô.” Đơn sơ như bồ câu, thực sự nhiều khi ngài không được khôn ngoan như con rắn. Dầu vậy, không một sức mạnh nào làm cho ngài nao núng, vì có Chúa ở với ngài.
Ngài bị treo cổ ngày 10 tháng 3 năm 1615 tại Glasgow. Ngài được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên thánh năm 1976.
AMDG
ĐỂ TÔN VINH THIÊN CHÚA HƠN