Chữ Quốc ngữ – Chữ Nôm
Theo cha Đỗ Quang Chinh, S.J., “Có thể nói được, trong các thích nghi của Giêsu hữu ở VN, có một loại mà chúng tôi xin gọi là ‘thích nghi sáng tạo’; chúng tôi muốn nói: Thích nghi để làm ra một cái gì mới lạ đầy tính Việt Nam dù có pha trộn phần nào hình thức Tây phương, đó là chữ Quốc ngữ”[23].
Khi các Giêsu hữu đến Đàng Trong giới thiệu Tin Mừng, vì không biết tiếng Việt, nên phải dùng đến các thông ngôn, thường là người Nhật. Lắm khi họ đã dịch sai, nên đã gây ra nhiều hiểu lầm đáng tiếc. Dó đó, các Giêsu hữu bó buộc phải học tiếng Việt để có thể giảng dạy hiệu quả hơn cho người Việt và dễ dàng chung sống với họ hơn.
Các thừa sai đầu tiên đến Việt Nam đều học trực tiếp tiếng Việt với người Việt. Rồi ký âm lại theo mẫu tự La tinh để dễ nhớ và dùng riêng cho mình. Những ký âm này được dùng trong các thư từ hay báo cáo thường niên cho Dòng ở Áo Môn, Rôma, v.v., nhất là khi phải ký âm những từ về địa dư, về tên riêng. Chẳng hạn Sinoa (Xứ Hoá), Ungue (Ông Nghè), Quamguya (Quảng Nghĩa), v.v.
Trong thực tế, từ giữa thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19, chữ Quốc ngữ dạng abc vẫn chỉ được dùng rất hạn hẹp trong giới Công giáo. Lúc đầu, các thừa sai nuốn sáng tạo một thứ chữ mới dùng làm phương tiện để truyền giảng Tin Mừng mà thôi, chứ chưa có mơ ước phổ cập hoá chữ Quốc ngữ cho dân Việt. Mãi đến cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, chữ Quốc ngữ mới dần được phổ biến, nhất là từ năm 1930 trở đi.
Góp công sáng tạo chữ Quốc ngữ đầu tiên là các thừa sai Dòng Tên ngoại quốc rất giỏi tiếng Việt và các thầy giảng Việt Nam: Francisco de Pina (1585-1625), Cristosforo Borri (1583-1632), Gaspar d’Amaral (1592-1646), Antonio Barbosa (1594-1647), Alexandre de Rhodes (1593-1660), Filipo Marini (1608-1682), Bento Thiện (1614-1686), Igesicô Văn Tín (cùng thời với Bentô Thiện), v.v.
Tính đến thế kỷ 19, góp công làm cho hoàn hảo và phổ biến chữ Quốc ngữ là hầu hết các thừa sai Paris và người Việt Nam: François Deydier (1634-1693), Pierre Langlois (1640-1700), Loren Huỳnh Lâu (1656-1799) Marin Labbé (1648-1723), Pigneau de Béhaine (1741-1799), Felippe do Rosario Bỉnh (1759-1833), Jean-Louis Tabert (1794-1840), Philiphê Phan Văn Minh (1815-1853), Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898)[24], v.v.
Theo cha Đỗ Quang Chính, từ năm 1651 trở về trước, chưa thấy cỏ một bản văn nào viết hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ. Cha Đắc Lộ là người đầu tiên soạn thảo và cho xuất bản hai cuốn sách bằng chữ quốc ngữ tại Rôma năm 1651. Đó là cuốn từ điển Việt-Bồ-La và cuốn Phép Giảng Tám Ngày. Mục đích của hai cuốn sách này là để giúp các thừa sai học tiếng Việt và còn là để người Việt có thể học tiếng La tinh. Đây là công trình lớn của Đắc Lộ trong giai đoạn hình thành chữ Quốc ngữ, tuy ngài không phải là người đầu tiên sáng tạo ra chữ quốc ngữ.
Trong thực tế, từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, giới công giáo vẫn dùng chữ Hán-Nôm bên cạnh chữ Quốc ngữ, thậm chí còn nhiều hơn chữ Quốc ngữ. Cho nên việc sử dụng song song ba thứ văn tự trong mấy thế kỷ qua là thích hợp với hoàn cảnh cụ thể, vì nhiều người trong thời đó đã biết tiếng Hán-Nôm rồi. Vì thế, khi đề cập đến cuốn giáo lý viết tay bằng tiếng Đàng Trong năm 1620, thì phải hiểu đó là chữ Nôm; cụ Gioakim ở An Vực (Thanh Hoá) năm 1627 đã dịch một số sách đạo từ chữ Hán, do cha Đắc Lộ trao cho, sang tiếng Việt, thì cũng phải hiểu là chữ Nôm; khoảng 1627-1630, bà Catarina, thuộc vương tộc nhà Trịnh, đã soạn ba sách đạo theo thể vè vãn, cũng phải hiều là bằng chữ Nôm. Đặc biệt, cha Majorica, trong 26 năm ở Đàng Ngoài, đã viết 50 sách hoàn toàn bằng chữ Nôm về Công giáo[25].
Việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ và sử dụng chữ Nôm của các Giêsu hữu trong việc truyền giảng Tin Mừng và dạy giáo lý là một đóng góp không nhỏ cho cả nền văn học công giáo Việt Nam, lẫn nền văn học Việt Nam.
Sử dụng một số các thuật ngữ công giáo
Việc sử dụng các thuật ngữ công giáo cho tới nay vẫn chưa hoàn toàn thống nhất trong giới công giáo Việt Nam. Ngay từ đầu, các Giêsu hữu đã cố gắng thích nghi các thuật ngữ công giáo tây phương vào Việt Nam. Ngay từ thế kỷ 17 tới giữa thế kỷ 19, người ngoài công giáo còn dùng những từ ngữ sai lầm để gọi Đạo Thiên Chúa. Các cụm từ phổ biến nhất là Đạo Hoa lang, Đạo Portughê, Đạo Pha lang. Cho nên cần nỗ lực làm cho người ta hiểu về đạo mới hơn. Sau đây là một vài thuật ngữ:
– Về cách gọi tên đạo mới và về tên của Thiên Chúa: Đạo Đức Chúa Trời đất. Đó là cụm từ chỉ tôn giáo mới được đưa vào xã hội Việt Nam. Từ đó trở đi, giới công giáo sử dụng cụm từ này, hoặc gọi tắt là Đạo Chúa, Đạo Đức Chúa Trời. Sách Phép Giảng Tám Ngày sử dụng khoảng 100 lần cụm từ Đức Chúa Blời đất. Majorica cũng dùng nhiều lần hai cụm từ Đức Chúa Trời và Thiên Chúa trong các tác phẩm của ông. Giáo Hội Việt Nam lúc đầu cũng dùng nhiều nhất là cụm từ Đức Chúa Trời, Thiên Chúa, để chỉ Đấng Tối Cao, hoặc cụm từ Đạo Đức Chúa Trời, Đạo Thiên Chúa.
– Công thức rửa tội: Tau rữa mầï, nhân danh Cha, và Con, và Su phi ri tô Sang tô. Danh xưng về Chúa Thánh Thần là Su phi ri tô Sang tô.
– Về những thuật ngữ tín lý, luân lý, bí tích, phụng vụ, danh chức, trong Phép Giảng Tám Ngày cũng như trong nhiều tác phẩm của Majorica, có nhiều thuật ngữ hoàn toàn bằng tiếng Việt hoặc Hán-Việt như: Đức Chúa Blời Ba Ngôi, Thiên Chúa Nhất Thể Tam Vị, Thày Cả, tội trọng, tội mọn, phép nhất phu nhất phụ, tràng hạt, lần hạt, v.v., hoặc bằng tiếng La tinh hay Bồ Đào Nha như: Apostolo, Spirito-Sancto, v.v.
Sách giáo lý : Phép Giảng Tám Ngày
Đây là cuốn sách giáo lý đầu tiên bằng song ngữ La tinh-Việt do cha Đắc Lộ biên soạn, ấn hành tại Rôma năm 1651, do Thánh Bộ Truyền Giáo chịu trách nhiệm xuất bản. Biên soạn cuốn này, có lẽ Đắc Lộ đã dựa vào kinh nghiệm dạy giáo lý trước đây, khi ngài còn hoạt động ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Nội dung dựa theo Kinh Tin Kính. Cách trình bày có thể là theo tiến trình Linh Thao. Cách thực hành có thể được rút gọn trong 8 ngày. Có lẽ vì thế mà những ai muốn tranh luận với ngài, khi truyền giáo ở Đàng Ngoài, ngài đòi hỏi họ phải tham dự đủ tám ngày đã rồi mới tiến hành tranh luận.
Cuốn Phép Giảng Tám Ngày, được biên soạn vào thế kỷ 17, nói chung là có nhiều ưu điểm về mặt ngôn ngữ, sư phạm, thích nghi, nhưng cũng có một số những nhược điểm, nhất là khi khi phê bình tiêu cực các tôn giáo khác, nhất là Phật giáo.
Cách cử hành các bí tích và sống đạo
Việc cử hành các bí tích có thể gây hiểu lầm, nhất là khi làm những dấu hiệu, cử chỉ bên ngoài. Trong thực tế, các vua quan và dân chúng cáo buộc các thừa sai đã dùng bùa mê, dùng phù phép để mê hoặc họ. Do đó, các Giêsu hữu đã cố gắng thích nghi.
Chẳng hạn, khi rửa tội cho người lớn, nhất là phụ nữ, không xức dầu trên ngực, không cho ăn muối, không xức nước bọt, cũng không hà hơi. Hoặc khi giải tội, nhất là cho phụ nữ, để tránh sự hiểu lầm của dân chúng cho là xúc phạm đến thuần phong mỹ tục, cha Đắc Lộ có lúc đã phải ngồi sát vách một nhà, người xưng tội ở bên kia vách nhà và đục thủng một lỗ nhỏ để xưng tội.
Một việc thích nghi ‘đi trước thời đại’ về việc ‘giải tội tập thể’, đó là trường hợp cha Đắc Lộ đã làm, được kể lại trong sácn Hành Trình Truyền Giáo. Số là vào khoảng thời gian mấy tháng trước khi bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài năm 1630, cha Đắc Lộ trên đường bị đày lên Bố Chính (Vinh) để đẩy vào Đàng Trong, các bổn đạo khóc lóc thảm thiết vì thương tiếc, và muốn xưng tội với ngài lần cuối, nhưng không được. Thấy lòng khao khát tốt lành của họ là hợp lý, ngài liền sai các thầy giảng đi trước chuẩn bị cho họ xét mình và thực lòng sám hối. Rồi khi thuyền đi ngang qua, ngài sẽ ban phép lành tha tội cho họ. Một sáng kiến quá tuyệt!
Trước đó, năm 1628, khi bị Chúa Trịnh quản thúc tại Thăng Long, cha Đắc Lộ đã viết bài giảng Chúa Nhật, rồi tìm cách luồn ra cho các thầy giảng để họ in bài ra phát cho các bổn đạo đang họp tại các tư gia để đọc và ‘chia sẻ Lời Chúa’. Một sáng kiến quá hay!
Tôn kính tổ tiên
Đây là một vấn đề tế nhị và phức tạp, gây ra nhiều tranh luận gay go và kéo dài, nhất là giữa các nhóm thừa sai khác nhau, tại Trung Hoa cũng như tại Việt Nam. Như đã nói, tại Việt Nam, trước khi Tin Mừng được giới thiệu, mọi tầng lớp, từ vua quan đến bần dân đều chịu ảnh hưởng nặng nề và sâu xa của Tam Giáo. Tam Giáo đã ăn sâu vào đời sống và tâm thức dân Việt và trở thành truyền thống từ lâu đời, chẳng những về mặt tín ngưỡng, mà còn cả về mặt chính trị, văn học, nghệ thuật, phong tục, tập quán, v.v. Nằm trong số các nước chịu ảnh hưởng lớn bởi Tam Giáo, Việt Nam có chung truyền thống thờ kính trời đất, tôn kính tổ tiên, tôn kính các bậc thánh hiền, … được diễn tả qua nhiều nghi lễ và phong tục.
Các Giêsu hữu đến truyền giảng Tin Mừng tại Trung Hoa và Việt Nam đều tôn trọng truyền thống này và để cho tín hữu tiếp tục thực hành những nghi lễ cổ kính đó. Tại Việt Nam, các thừa sai Dòng Tên vẫn cho bổn đạo bày tỏ lòng tôn kính tổ tiên theo tập tục đã có như cúng giỗ, ngay cả việc bày đồ cúng, đốt hương nhang trên phần mộ, tôn kính Đức Khổng Tử, lập bàn thờ Thiên, giữ Trang trong nhà và các phong tục khác. Các ngài chỉ sửa đổi và lọai bỏ những gì thật sự là mê tín dị đoan và buộc các bổn đạo luôn chỉ tôn thờ một Đức Chúa Trời mà thôi, còn những vị khác, chỉ là tôn kính, tưởng nhớ với lòng hiếu thảo theo tinh thần gia đình, xã hội và dân tộc. Nhưng nhiều nhóm truyền giáo khác, nhất là nhóm thừa sai Paris, lại cho tất cả những nghi lễ trên là mê tín dị đoan, nên tuyệt đối cấm chỉ các bổn đạo thực hành.
Sự khác biệt quan điểm dẫn tới việc tranh luận và kiện cáo qua Tòa Thánh. Vụ này được biết dưới cái tên De Ritis Sinensibus – Lễ Phép Nước Ngô. Cuộc tranh tụng căng thẳng kéo dài đến hơn 100 năm, kết thúc với việc Tòa Thánh công bố Hiến Chế Ex Quo Singulari năm 1742, cấm chỉ tuyệt đối thực hành các nghi lễ trên. Ai phải ai sai vẫn còn là đề tài tranh luận. Một điều có thể nói được rõ ràng là hậu quả thật tai hại cho việc truyền giáo ở Việt Nam và Trung Hoa, vì nó làm cho người Việt Nam coi việc theo đạo là bất hiếu với tổ tiên, mặc dù điều răn thứ tư của đạo Thiên Chúa (liền sau việc thờ phượng Thiên Chúa) là “thảo kính cha mẹ”.
187 năm sau, vào ngày 08.12.1939, Huấn Thị Plane Compertum Est, do Bộ Truyền Giáo ban hành, mới cho phép Giáo Hội Trung Hoa và tại các nước lân cận được cúng giỗ … theo phong tục dân sự địa phương.
Riêng tại Việt Nam, ngày 14.06.1965, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mới công bố, tại Đà Lạt, một thông báo cho phép cúng giỗ ….
Sự cộng tác của người Việt
Khi mới chân ướt chân ráo đến Việt Nam vào đầu thế kỷ 17, một đất nước hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về mọi mặt với xã hội tây phương, để khởi đầu công cuộc truyền giảng Tin Mừng, các Giêsu hữu ngoại quốc luôn cần đến sự cộng tác của người bản xứ, rồi dần dần thay thế mình. Đó chính là cách thức Dòng Tên vẫn thường làm.
Những cộng tác viên nhiệt thành và tích cực, đó chính là các thầy giảng, những giáo hữu đạo đức.
1. Hội Thầy Giảng[26]
Đây là một hội gồm những người rất đạo đức và nhiệt thành. Họ cộng tác rất đắc lực với các Giêsu hữu cũng như với các nhóm thừa sai khác, làm cho Giáo Hội Việt Nam phát triển rất nhanh và đạt những kết quả rất lớn. Đặc biệt, như đã nói, trong những năm vắng bóng các thừa sai, các thầy giảng đóng một vai trò rất lớn trong việc củng cố giáo đoàn, giảng dạy giáo lý và truyền giáo.
Hội Thầy Giảng được cha Đắc Lộ và Marques thành lập ở Đàng Ngoài ngày 27.04.1630. Sau đó được cha Gaspar d’Amaral củng cố và đưa ra các luật lệ. Hội được lập tại Đàng Trong ngày 31.07.1643, tại Hội An. Các thành viên thuộc Hội này, phải hội đủ 4 điều kiện : ý chí và nhiệt thành phục vụ; trí khôn trung bình và biết chữ Hán; độc thân; trưởng thành.
Các thầy giảng là những người lúc đầu, khi còn ít người, được huấn luyện trên đường, luôn đi theo và sống chung nhà với các thừa sai. Trước khi bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài năm 1630, hai cha Đắc Lộ và Marques đã lập một ‘chủng viện’ (hiểu theo nghĩa rộng)[27]. Chủng viện này được tổ chức qui củ hơn khi cha Gaspar d’Amaral đến hoạt động ở Đàng Ngoài từ 1631-1638. “Năm 1652, cha Rhodes trình bày với ĐTC Innocens X số chủng sinh ở Đàng Ngoài đã tới gần 100, và trong số này có mấy người rất xứng hợp với chức vụ linh mục cả hai mặt đạo đức và tài trí”[28]. Sau thời gian huấn luyện, dài ngắn tuỳ mỗi người (ba thầy khấn ngày 27.04.1630 tại Đàng Ngoài sau thời gian thụ huấn khoảng 03 năm; còn 10 thầy khấn ngày 31.07.1643, thời gian thụ huấn khoảng 01 năm), họ tuyên khấn giữ các Lời khuyên Phúc Âm và được xếp bậc một cách nào đó cũng khá giống như cách thức của Dòng Tên[29]. Về sau, nhất là từ năm 1637, tại Đàng Ngoài, việc huấn luyện được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn, và lâu dài hơn. Các thầy chẳng những là trợ giúp các Giêsu hữu ngoại quốc giới thiệu Tin Mừng, mà còn giúp cho các vị này nói tiếng Việt chuẩn xác hơn, góp ý về những sách viết bằng tiếng Việt và về những quyết định quan trọng. Chẳng hạn, thời gian cha Đắc Lộ đi đi về về giữa Áo Môn và Đàng Trong từ 1640-1645, một phần cũng là nhờ sự phân tích tình hình và góp ý của các thầy giảng. Có hai thầy giảng ở Đàng Ngoài là Bentô Thiện và Igesicô Văn Tín vào năm 1659 đã viết chữ Quốc ngữ thành câu cú. Đặc biệt Bentô Thiện viết rất giỏi. Thầy có viết một tập Lịch sử nước An Nam dài 12 trang giấy, khổ 20x29cm.[30] Thời gian các Giêsu hữu vắng bóng tại Việt Nam, các thầy giảng hoạt động rất hăng say và đã rửa tội được cho nhiều người. Ngoài ra, họ còn in ‘lịch phụng vụ’ và phát cho dân chúng để biết về các ngày lễ mà giữ nữa.
Tại Đàng Ngoài, năm 1627 có 3 thầy giảng, năm 1637 có 7 thầy giảng. Tại Đàng Trong, năm 1643 có 10 thầy giảng. Cho ngày 26.07.1645, chỉ còn lại 7 thầy (Anrê Phú Yên, Inhaxiô và Vincentê đã bị trảm quyết). Các thầy giảng là những cộng tác viên đắc lực và là những người luôn đồng hành với các thừa sai Dòng Tên trong sứ vụ truyền giảng Tin Mừng cho dân tộc mình.
“Cũng cần nói thêm rằng, từ khi các thừa sai Paris cũng như các cha Đa Minh có mặt ở Việt Nam đều đặn, thì Tu hội không còn giữ được sự thống nhất trong tổ chức và điều hành, đặc biệt từ lúc phân chia ra hai Giáo phận Đông, Tây, thì mỗi Giám Mục có toàn quyền trên Tu hội thầy giảng thuộc Giáo phận mình. Do đó không thể có một bề trên tối cao cho các thầy giảng nữa, mà mỗi Gm là bề trên tối cao của các thầy giảng trong Giáo phận. Thế là từ đây có nhiều Tu hội thầy giảng ở VN, dù hình thức, tinh thần và hoạt động của họ không giống nhau”[31].
Hội Thầy Giảng là chiếc nôi, là vườn ươm vun trồng các linh mục Việt Nam tiên khởi. Thế nhưng, “Việc tiến cử những thầy giảng đầu tiên lên chức vụ linh mục, lại không phải do các cha DT, nhưng do các cha thừa sai Paris”[32]. Qua những thay đổi, Hội Thầy Giảng dần dà trở thành Nhà Đức Chúa Trời.
2. Nhà Đức Chúa Trời
“Các thầy giảng, kẻ giảng đi làm việc, ở chung với các linh mục tại các xứ đạo, dưới quyền điều khiển trực tiếp cùa cha xứ. Nhà xứ (nhà cha sở) trở thành một cộng đoàn ít là về hình thức cũng như cộng đoàn Dòng tu. Mỗi nhà xứ như vậy trở thành nhà Đức Chúa Trời, trong đó có ít hoặc nhiều người, tuỳ theo hoàn cảnh, thời kỳ. Cho đến đầu thế kỷ 20, có những nhà Đức Chúa Trời (nhà cha xứ) trong mấy Giáo phận miền Bắc đôi khi lên tới 25 người, gồm cha xứ, cha phó, thầy xứ (thầy cai), thầy quản, các thầy giáo, thầy quyền, các chú, đông nhất là các cậu, rồi đến các ông bõ giúp việc vật chất trong nhà xứ”[33].
Nhà Đức Chúa Trởi bắt nguồn từ Tu hội thầy Giảng và thành phần chủ yếu của nhà Đức Chúa Trời chính là các thầy giảng, kẻ giảng, các chú, các cậu. “Cho đến năm 1945, tổ chức nhà Đức Chúa Trời vẫn phát triển trong một số Giáo phận miền Bắc. Sau đó, nhà Đức Chúa Trời tan rã, nhất là từ năm 1954, do nhiều nguyên nhân gây nên những biến đổi lớn lao trong xã hội và Giáo hội Việt Nam”[34].
3. Các bổn đạo nhiệt thành
Trong số những người trở lại đạo trong những năm đầu, tại Đàng Trong cũng như tại Đàng Ngoài, không thiếu những tân tòng nổi tiếng, có học thức, có thế giá, nhiệt thành với lòng đạo, dấn thân giới thiệu Tin Mừng cho người khác, dạy giáo lý, viết sách đạo, nhạc đạo, thi ca đạo. Chẳng hạn như ông David, ông Nghè Bảo Lộc Rin, bà Lớn Gioanna, bà Minh Đức Vương Thái Phi, Ngọc Liên Công Chúa ở Đàng Trong[35]; Mẹ của Chúa Trịnh, bà Catarina, các ông Gioakim, Giuong, Phêrô, …, ở Đàng Ngoài[36]. Ngoài ra, họ còn tìm cách che dấu các thừa sai và các bổn đạo trong những lúc bị bắt bớ và còn lập nhà thương để chăm sóc những người đau yếu nữa. Các bổn đạo luôn sẵn sàng chết vì đức tin để làm chứng cho Tin Mừng.
Ngoài ra, cũng nên lưu ý là trong số những thanh niên nam nữ đạo đức đã nẩy sinh những ơn gọi linh mục và tu sĩ về sau. Cha Đắc Lộ, trong chương cuối cùng của cuốn Histoire du Royaume de Tunquin (Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài), đã viết: “Sau hết, một số đông Kitô hữu nhiệt thành này (ước ao được sống trọn lành theo các lời khuyên Phúc Âm) muốn tự buộc mình khấn hứa vâng phục với chúng tôi, nhưng chúng tôi phải từ chối trong sự nuối tiếc của họ […], và một số lớn thanh niên nam nữ khấn hứa sống khiết tịnh vĩnh viễn; và ngay cả những người đã lập gia đình, sau khi họ đồng ý với nhau cũng khấn tiết dục vĩnh viễn[37].
Nhóm các thiếu nữ đạo đức này là vườn ươm làm nẩy sinh các chị Dòng Mến Thánh Giá tiên khởi. Kết quả là, vào ngày Lễ Tro 19.02.1670, Đức Cha Lambert chính thức thành lập Dòng Mến Thánh Giá. Lúc bấy giờ, mới chỉ có hai thiếu nữ đầu tiên được chọn làm thành viên của Dòng. Đó là chị Phaola và Anê[38].
Ngay từ khởi đầu công cuộc truyền giảng Tin Mừng tại Việt Nam, người giáo dân quả đã đóng một vai trò rất lớn. Công Đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh đến vai trò của người giáo dân. Sau Công Đồng, đã có nhiều văn kiện và tài liệu của Toà Thánh và của các Đức Giáo Hoàng, nhất là Tông huấn Christifideles Laici (Người Kitô hữu giáo dân) của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã nhấn mạnh đến ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân, đặc biệt là sứ mạng truyền giáo. Thế mà, thật đáng tiếc, không ít giáo dân Việt Nam hôm nay vẫn xem việc truyền giảng Tin Mừng là cùa giới linh mục và tu sĩ!
Giới thiệu Việt Nam cho phương Tây
Ngoài sứ mạng chính là truyền giảng Tin Mừng, một số các Giêsu hữu còn viết sách để giới thiệu Việt Nam cho phương Tây. Một số thừa sai Dòng Tên đã viết nhiều sách chẳng những là nói về công cuộc truyền giáo, mà còn nói về lịch sử, xã hội, địa dư, tôn giáo, phong tục tập quán, thực vật, y học, cây cỏ, … của người Việt nữa.
Cuốn sách quan trọng đầu tiên nói về xã hội Đàng Trong là cuốn của Christoforo Borri, Relatione della nvova Missione delli PP. Della compania di Giesv, al Regno della Cocincina, Roma, 1631. Từ 1631-1633. Sách này được xuất bản 9 lần bằng các ngôn ngữ Ý, Pháp, La tinh, Hà Lan, Đức, Anh.
Tiếp đến là cuốn của Alexandre de Rhodes, Relazione De’feleci successi della Santa Fede predicate da’Padri della Compagnia di Giesv nel Regno di Tvmkino, Milano, 1650. Tác phẩm này còn được xuất bản bằng tiếng Pháp và tiếng La tinh.
Tóm lại, trong giai đoạn từ 1615-1773, đã có trên 155 Giêsu hữu, thuộc 20 quốc tịch khác nhau, nhiều nhất là Bồ Đào Nha, đã đến truyền giảng Tin Mừng tại Việt Nam. Trong số đó, có một số vị đã đến hai lần. Ngoài ra, còn có 33 Giêsu hữu người Việt tích cực góp phần vào công cuộc giới thiệu Tin Mừng cho đất nước này. Tất cả đã mở đường và đặt nền vững chắc cho việc khai sinh Giáo Hội tại Việt Nam. Cha Đỗ Quang Chính đã đưa ra nhận xét:
“Các Giêsu hữu tuy hoạt động truyền giáo ở hai xứ thuộc quyền Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, sau mấy thừa sai Phanxicô, Đa Minh, nhưng đã xây nền móng vững chắc cho Giáo Hội địa phương trong tiền bán thế kỷ 17. Từ đó trở đi, các nhà truyền giáo thuộc nhiều tập thể khác nhau lần lượt đến xứ này, như các thừa sai Paris (M.E.P.), Đa Minh, Phanxicô, Augutinh, Barnabê, Capucinô, Sylvestrê. Từ năm 1668 xuất hiện những linh mục Việt Nam thuộc hai Giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong, càng giúp cho việc giới thiệu Tin Mừng lan rộng mau chóng hơn. Thêm vào đó, lòng nhiệt thành và năng nổ của các thầy giảng, các dì Phước Mến Thánh Giá và của nhiều giáo hữu Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều cho Tin Mừng ăn rễ vào xã hội. Các Giêsu hữu vào xã hội Con Rồng Cháu Tiên, dù gặp nhiều khó khăn, nhưng đã đóng góp được phần nào trong công cuộc giới thiệu Tin Mừng với con người Việt Nam, sáng lập ra chữ Quốc ngữ mới, lập nhà thương, nghiên cứu và xuất bản các tác phẩm liên quan đến Tôn giáo, Thiên văn, Toán học, Sử học, Địa dư, Vật lý, Y học, Thực vật học, Xã hội học, v.v…. Tuy vắng bóng trong xã hội Con Rồng Cháu Tiên gầm 200 năm, nhưng một số thành quả của các Giêsu hữu vẫn tồn tại trong xã hội”[39].