Cả thế hệ dân Do Thái được giải thoát ra khỏi Ai-cập, không ai được vào Đất Hứa vì kém niềm tin. Họ đã chẳng vượt qua được cuộc thanh lọc và tuyển lựa của Thiên Chúa nơi hoang mạc. May mắn thay, Thiên Chúa vẫn cho dân một cơ may khi Ngài đã gầy dựng một nhóm nhỏ, là con cháu của thế hệ kém tin. Để rồi từ hạt mầm số sót nhỏ bé này, nhóm số sót đã trở nên hùng mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng và đủ sức chinh chiến với các dân ngoại bang để giành cho kỳ được phần đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho họ. Với sự nâng đỡ của Thiên Chúa, dân dần chiếm lĩnh được nhiều vùng đất và bắt đầu xây dựng một quốc gia cho riêng mình nơi Đất Hứa.
Tiếc thay, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, gien bội phản và kém tin từ thế hệ trước của dân Do Thái đã lây truyền cho thế hệ sau. Có cuộc sống an cư lạc nghiệp, dân bắt đầu phản bội Thiên Chúa. Họ thờ các thần và ngẫu tượng của các dân ngoại bang sống xung quanh. Thiên Chúa đã không ngừng gửi các ngôn sứ đến để kêu gọi dân hoán cải. Tuy nhiên, con tim và cõi lòng họ đã ra chai đá nên họ cứ tiến bước trên đường nẻo gian tà. Điều gì đến đã phải đến, dân đã phải nhận lãnh hậu quả hết sức nặng nề vì phản bội giao ước. Họ bị ngoại bang tấn công và thất thủ. Nước mất, nhà tan và toàn dân phải đi lưu đày biệt xứ. Chính khi lâm vào hoàn cảnh bĩ cực ấy, họ mới bắt đầu trân quý về thời thái lai ngày nào. Tất cả cũng chỉ vì dân ưa thích sống trong bóng tối hơn ánh sáng, ưa thích đường nẻo gian tà hơn lối đi công chính. Thời gian họ lưu đày nơi đất khách quê người là thời gian của nước mắt, ăn năn và hối lỗi. Thiên Chúa là Đấng hay mủi lòng nên khi dân thật lòng hối lỗi, Ngài không thể không ra tay trợ giúp. Dân đã được hồi hương để tái thiết đất nước và gầy dựng cuộc sống mới.
Như thế, Thiên Chúa chẳng bao giờ rời mắt khỏi dân. Thấy họ lâm vào hoàn cảnh hoạn nạn, Ngài chẳng thể nào làm ngơ được. Ngay từ khi A-đam và E-và bội phản, Thiên Chúa đã hứa sẽ cứu chuộc con người khỏi sự đọa đày của tội lỗi và sự dữ bằng cách gầy dựng một dòng giống mới bao gồm những con người có lòng tin. Khi con dân của Ngài phải nô lệ ở Ai-cập, Ngài đã dủ lòng thương để giải thoát họ khỏi cảnh tôi đòi. Thiên Chúa đã luôn ấp ủ dân như gà mẹ ủ ấp gà con dưới đôi cánh tình yêu và quyền năng của Ngài. Dù dân cư xử với Thiên Chúa tệ hại đến thế nào, có bội phản Ngài đến mấy đi nữa, Ngài không bao giờ từ bỏ dân. Ngài luôn đồng hành với dân và sẵn sàng ra tay cứu giúp những lúc hoạn nan và gian truân.
Các bạn thân mến
Ắt hẳn các bạn cũng có kinh nghiệm này, mỗi khi ta lâm vào hoàn cảnh hoạn nạn và nguy nan, thường sẽ có một bàn tay chìa ra để nâng đỡ ta dậy. Chẳng bao giờ ta lâm vào hoàn cảnh tuyệt vọng như đêm tối mà không nhìn thấy chút ánh sáng le lói cuối đường hầm. Khó khăn, gian truân và thử thách thì ai cũng đã trải qua nhưng chúng ta không hoàn toàn cảm thấy tuyệt vọng. Luôn luôn có một chút hy vọng vụt lóe lên giữa sự u ám và ảm đạm của buồn chán và thất vọng. Dường như có một thế lực vô hình nào đấy không để ta phải thất vọng nhưng bắt ta phải hy vọng luôn. Cứ như sau cơn mưa trời lại bừng sáng, đêm đông lạnh lẽo và chết chóc sẽ qua đi để nhường chỗ cho nắng xuân ấm áp và tràn đầy sức sống. Thế lực vô hình ấy chính là Thiên Chúa, Đấng luôn bảo vệ và gìn giữ ta.
Như dân Do Thái, Thiên Chúa đã viếng thăm và giải thoát họ khỏi kiếp lưu đày và cho họ được hồi hương trở về Đất Hứa. Thế nhưng, ngay tại quê hương họ vẫn tiếp tục bị đế quốc khác đô hộ. Do đó, tâm tình chờ mong được giải thoát nay vẫn tiếp tục hướng tới ngày của Đấng Messia, đến ngày Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người. Khi ông Simêon được bồng ẳm Hài Nhi Giêsu trên tay đã thốt lên: “Giờ đây, lạy Chúa, xin thả tôi tớ Người về, chiếu theo lời Người, trong bình an. Bởi chưng, mắt tôi đã thấy ơn Người cứu độ” (Lc 2, 29-30). Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa luôn sử dụng những trung gian như ngôn sứ hay các thủ lãnh để giải thoát dân khỏi hoàn cảnh cùng cực. Tuy nhiên, dân đã chẳng mấy tin vào Thiên Chúa như là Đấng hằng cứu chuộc. Vì thế, Thiên Chúa muốn gửi chính Ngôi Hai xuống thế làm người với hy vọng con người sẽ tin tưởng vào Thiên Chúa cứu chuộc.
Thiên Chúa quả là Đấng hết mực yêu thương. Ngài chậm giận và rất giàu tình thương. Bao lần dân bất trung và bội phản, chẳng đặng đừng Thiên Chúa mới phải cho dân nếm đòn đau. Giận thì giận nhưng Thiên Chúa giận là vì thương. Cho dù con người có sống tội lỗi thế nào đi nữa nhưng chỉ cần họ tỏ lòng ăn năn và cầu khẩn Ngài những khi gặp thử thách gian truân, thì Thiên Chúa vẫn sẽ luôn ra tay tế độ vì đối với con người Thiên Chúa luôn là Thiên Chúa cứu độ.
Jos. Nguyễn Huy Mai