“Xác tôi làm môi cho tôm cá hay giòi bọ cũng không quan trọng. Điều tôi ao ước hơn hết là được chết trong Dòng Tên với các anh em tôi.”
Thánh Giuse Pignatelli sống trong những năm tháng đen tối nhất trong lịch sử Dòng Tên. Năm 1767, chính quyền Tây Ban Nha trục xuất Dòng Tên. Năm 1773, Tòa thánh quyết định giải thể Dòng Tên. Từ năm 30 tuổi cho đến khi chết, ngài phải sống cảnh lưu đày suốt 44 năm. Mãi 3 năm sau khi ngài qua đời, Dòng mới được tái lập.
Thánh Giuse Pignatelli sinh năm 1737 tại Zaragoza, miền Đông bắc Tây Ban Nha, trong một gia đình quyền quý, mới hơn 15 tuổi, ngài đã từ bỏ mọi vinh hoa sẵn có để vào tập viện Dòng Tên tại Tarragona. Trong thời gian ở tập viện và học viện, ngài tỏ ra là một người trẻ vững chắc cả về đức hạnh cũng như kiến thức. Năm 25 tuổi, ngài thụ phong linh mục.
Năm 1767, theo gương vua Bồ Đào Nha và vua Pháp, vua Tây Ban Nha ra lệnh trục xuất các Giêsu hữu ra khỏi vương quốc và các thuộc địa. Thật vậy, Dòng Tên thời nào cũng có người thương kẻ ghét. Thánh I-nhã còn coi việc bị bách hại như dấu hiệu nhận biết Dòng vẫn trung thành với chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá. Cuối cùng, do áp lực của ba nước ấy, lúc đó là những cường quốc hàng đầu trên thế giới, Tòa Thánh phải hy sinh Dòng Tên để Hội Thánh được yên ổn.
Trong số anh em bị trục xúc, thánh Giuse Pignatelli là cháu của Đức Thánh Cha Innocente XII và là em của viên sứ thần Tây Ban Nha tại Pháp, nên ngài có đặc ân ở lại, với điều kiện phải ra khỏi Dòng. Ngài trả lời: “Xác tôi làm môi cho tôm cá hay giòi bọ cũng không quan trọng. Điều tôi ao ước hơn hết là được chết trong Dòng Tên với các anh em tôi.”
Thánh Giuse Pignatelli cùng với 500 Giêsu hữu Tây Ban Nha chấp nhận sống lưu đày và bị xua đuổi hết nơi này đến nơi khác. Dầu vậy, vững tin một ngày kia Dòng sẽ được hồi phục, nên bất chấp mọi thiếu thốn vật chất hay đau khổ tinh thần, ngài trung thành với ơn gọi đến cùng. Trong những năm đầu, ngài lo cho anh em có nhà cửa, có cơm áo, có thời giờ và địa điểm cầu nguyện và dâng lễ. Sau đó, ngài giúp anh em có việc làm, góp nhặt sách vở để sau này anh em mới có thể học. Càng về cuối đời, ngài càng hi vọng Dòng được hồi phục hơn, vì thế ngài tiếp nhận những người tìm hiểu ơn gọi, tập họp lại những anh em cũ, để sẵn sàng trở lại khi Dòng được tái lập.
Những năm cuối đời, ngài sống tại Rôma, tích cực chuẩn bị ngày Dòng hồi sinh. Chúa đã cho ngài uống cạn chén đắng khi cho ngài chết mà chưa thấy Dòng được tái lập. Dầu sao, ngài đã sống đến cùng với niềm hi vọng. Ngài qua đời ngày 15 tháng 11 năm 1811, ba năm trước khi Đức Thánh Cha Piô VII phục hồi Dòng. Ngài được Đức Thánh Cha Piô XII tuyên thánh năm 1954.
AMDG
ĐỂ TÔN VINH THIÊN CHÚA HƠN