Đức Bà Đi Viếng Bà Thánh Isave (Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh – Ngày 21 và 22 tháng 12 năm 2021)

 

Thứ Hai Thì Ngắm

Đức Bà Đi Viếng Bà Thánh Isave

(Lc 1, 39-56)

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.

 

49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!

 

50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”

 

56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

 

(Bản dịch của Nhóm CGKPV)

 

Bức tranh « Visitation » (Thăm Viếng) của họa sĩ Mariotto Albertinelli (người Ý), vẽ năm 1503.

 

(A) Đức Maria đi và đến (c. 39)

 

 

 

(B)

Gặp gỡ
trong
hiệp thông

(c. 40-55)

1. Lời Chào và hiệu quả của lời chào (c. 40-41)

(a) Lời chào của Đức Maria (c. 40)

(b) Đứa con trong bụng nhảy lên (c. 41a)

(a’) Tràn đầy Thánh Thần (c. 41b)

2. Lời ca tụng của bà Ê-li-sa-bét (c. 42-45)

(a) Hướng về Mẹ Maria (c. 42)

(b) Ơn huệ nhận được (c. 43-44)

(a’) Hướng về Mẹ Maria (c. 45)

3. Lời ca tụng của Mẹ Maria (c. 46-55)

(a) Đức Chúa và « Nữ Tỳ Hèn Mọn »
(c. 46-48)

(b) « Biết bao điều cao cả » (c. 49)

(a’) Đức Chúa và những người khác
(c. 50-55)

(A’) Đức Maria ở và về (c. 56)

 

Khi cầu nguyện, chúng ta nên hình dung ra Đức Maria « vội vã lên đường » (c. 39), bước đi và tâm tình của Mẹ trong cuộc hành trình đi đến miền núi, đến thành thuộc chi tộc Giu-đa.

Chúng ta cũng có thể hình dung ra nhà bà Ê-li-sa-bét, là nơi gặp gỡ của hai chị em và cũng là nơi Đức Maria ở lại 3 tháng (c. 56). Vì thế, chúng ta cũng nên chúng ta cũng nên hình dung ra trong suốt ba tháng ở nhà người chị họ, Mẹ đã làm những gì và với tâm tình nào.

Chúng ta hãy nhìn ngắm Mẹ Maria và bà Ê-li-sa-bét “diện đối diện” (c. 40-55). Chính cuộc gặp gỡ trong hiệp thông, nhưng rất đời thường này, mang lại những hoa trái lạ lùng (c. 40-41), và là nơi khai sinh ra những lời ca tụng bất hủ: lời ca tụng của bà Ê-li-sa-bét, làm nên lời kinh Kính Mừng hàng ngày của chúng ta (c. 42-45), và lời ca tụng Magnificat của Đức Maria, hằng ngày trở lên lời ca tụng của chúng ta và được hát vang lên cách long trọng trong giờ Kinh Chiều (c. 46-55). Đây cũng là khuôn mẫu của mọi lời ca tụng: gặp gỡ trong hiệp thông để hướng tới lời ca tụng và sẽ trào vọt ra lời ca tụng; và lời ca tụng chỉ xuất phát từ sự hiệp thông và làm cho hiệp thông.

Xin Chúa Thánh Thần khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta, lòng khát khao mãnh liệt, để cho mầu nhiệm Thăm Viếng của Đức Maria trở thành « linh đạo » của chúng ta, nghĩa là được tái hiện trong cả cuộc đời và từng ngày sống của chúng ta : đó là đón nhận Ngôi Lời, để cho Ngôi Lời lớn lên và để cho Ngôi Lời đến với người khác qua sự hiện diện và những công việc nhỏ bé.

 1- Nhìn ngắm bà Ê-li-sa-bét và Mẹ Maria, diện đối diện (c. 39-40)

Bức tranh « Visitation » (Thăm Viếng) của họa sĩ Mariotto Albertinelli (người Ý), vẽ năm 1503, hoặc chính kinh nghiệm sống của chúng ta, sẽ giúp chúng ta hình dung khung cảnh của cuộc gặp gỡ giữa hai chị em. Nghe biết chị Ê-li-sa-bét, vừa hiếm muộn vừa đã có tuổi, nhưng lại có thai, Đức Maria liền vội vã lên đường đi thăm hỏi và giúp đỡ bà chị của mình. Em đi giúp chị sắp sinh con là điều vẫn còn xẩy ra trong đời thường của chúng ta, nhất là với những cuộc sinh ra đặc biệt. Và chính trong sự việc rất nhỏ bé của đời thường này mà Ân Huệ và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được nhìn nhận và tuyên xưng.

Tư thế diện đối diện, có thể làm chúng ta nghĩ đến cách sắp xếp vị trí của các đan sĩ khi hát kinh, đó chính là trung tâm mà từ đó lời ca tụng được khai sinh. Bởi lẽ, lời ca tụng là một sự hiệp thông. Chúng ta không thể ca tụng Chúa, nếu không hiệp thông với nhau.

Cuộc gặp gỡ có nhiều người hơn chúng ta tưởng (lời của bà Ê-li-sa-bét sẽ nói rõ cho chúng ta trong cuộc gặp này thực sự có bao nhiêu người), vì Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe Đức Maria chào hỏi, đứa con trong bụng bà nhảy lên ! Như thế, cùng với mẹ, em bé cũng đã nghe được (điều này y học ngày nay đã chứng thực), nhưng nghe được tiếng của ai ? Tiếng chào của « Dì Maria ». Nhưng với ơn gọi đang chờ đợi mình là « Người đi trước mặt Chúa » (1, 17), em bé Gioan như đã nghe được tiếng của em bé Giêsu (nói theo tương quan họ hàng là em Giêsu của mình) ngang qua tiếng của « Dì Maria ». Vì khi còn trong bụng mẹ, một cách nào đó, tiếng của mẹ là tiếng của con. Và đó chính là trường hợp của bé Gioan : em đã nhảy lên trong bụng mẹ, chắc chắc là vì Mẹ của em cũng đã rạo rực trong lòng khi nghe tiếng chào của Mẹ Maria. Bằng chứng là, Mẹ Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần và kêu lớn tiếng.

Như thế, ở bên trong cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, ẩn dấu một cuộc gặp gỡ khác nhiệm mầu và vô hình, nhưng rất hiện thực và sống động (vì Gioan hẳn đã làm mẹ nhói đau, nhưng là cái đau của hạnh phúc !) giữa hai người con ; và cả hai đều là ơn huệ tuyệt đối của Thiên Chúa. Sau này, theo các Tin Mừng kể lại, họ sẽ gặp nhau công khai tại sông Gio-đan, nhưng họ đã gặp nhau từ trước rất lâu qua cuộc gặp gỡ rất đỗi bình thường của hai người mẹ.

Trong cuộc sống, những cuộc gặp gỡ của chúng ta với người khác ban đầu tưởng chừng như tình cờ hay vô nghĩa, nhưng lại ẩn chứa một hay thậm chí nhiều cuộc gặp gỡ « nhiệm mầu » khác, và mang lại những hoa trái làm nên cuộc đời chúng ta, mà sau này chúng ta mới biết. Khi « về quê », nhất là vào những dịp đặc biệt, chúng ta sẽ nhớ lại một cách tự nhiên những kỉ niệm xưa, những « cố nhân », những cuộc gặp gỡ làm nên con người chúng ta hôm nay. Vì thế, chúng ta có thể tin rằng những cuộc gặp gỡ đang chờ chúng ta ở phía trước cũng sẽ chất chứa biết bao hoa trái trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà chúng ta không sao lường được.

2- Lắng nghe bà Ê-li-sa-bét (c. 41-45)

Lời của bà Ê-li-sa-bét mở đầu và kết thúc đều bằng lời tuyên xưng ân phúc của Mẹ Maria : phúc được Thiên Chúa ban nhưng không cho cả hai Mẹ Con (c. 41-42) ; phúc vì Mẹ Maria đáp lại bằng lòng tin vào Lời Thiên Chúa (c. 45). Lời này làm chúng ta nhớ lại biến cố Truyền Tin, ở đó chúng ta nhận ra rằng lòng tin của Mẹ Maria thật là tuyệt đối, bởi vì Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ một hành động tuyệt đối ; lòng tin của Mẹ là tuyệt đối, còn là vì Mẹ đã đón nhận trước cách triệt để cả một hành trình dài đằng đẵng và đầy bất trắc phía trước.

Ở giữa câu nói, bà Ê-li-sa-bét nói về mình : « Bởi đâu tôi được… ; này tai tôi… » (c. 43-44), nhưng hoàn toàn như người đón nhận : đón nhận với sự khiêm tốn cuộc viếng thăm của « em Maria », đón nhận với tất cả « tấm lòng » lời chào hẳn là rất đỗi bình thường và đơn sơ của cô em, và sau cùng là đón nhận hiệu quả của lời chào (vì mẹ đâu có làm chủ được chuyện con nó giẫy trong bụng). Chúng ta có thể tự hỏi, làm sao lời chào của Mẹ Maria mang lại hiệu quả kì diệu như thế, lại « đánh động » người nghe sâu xa như thế ? Hằng ngày và nhất là trong dịp lễ lớn, chúng ta cũng sẽ chào hỏi rất nhiều và cũng nhận được rất nhiều lời chào hỏi. Làm sao để lời chào của chúng ta đánh động người nghe, như lời chào của Đức Mẹ ?

Như thế, lời của bà Ê-li-sa-bét hoàn toàn hướng về em của mình và Ân Huệ Chúa ban nhưng không cho em. Tương tự như chính Mẹ Maria, Mẹ đã hoàn toàn hướng về chị Ê-li-sa-bét trong cuộc hành trình « thăm viếng » (thực tế là hơn cả thăm viếng, vì Mẹ ở lại tới ba tháng !). Ra khỏi mình để nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban cho người khác, đó chính là hiệp thông và ca tụng , vốn là ơn gọi của con người. Thái độ ngược lại là đóng kín và ghen tị.

Lời của bà Ê-li-sa-bét thật là đẹp, đẹp cả về hình thức lẫn nội dung, chính vì thế mà lời này trở thành một phần lời « Kính Mừng » vang lên liên lỉ và bất tận của chúng ta ; và nhất là với « Sự Vui Thứ Hai », chúng ta được mời gọi thực hiện cùng một hành trình của Đức Mẹ, đó là ra khỏi mình để hướng về Ân Huệ tuyệt đỉnh Thiên Chúa ban cho Mẹ cách nhưng không, hướng về ân huệ Thiên Chúa ban cho anh chị em, bà con của mình. Cảm nhận như thế khi đọc lời kinh « Kính Mừng », chính là cách tốt nhất để chuẩn bị mình đón nhận sự chia sẻ cùng một Ân Huệ của Mẹ, Ân Huệ Giêsu Kitô.

 3- Lắng nghe Mẹ Maria

a. Magnificat anima mea Dominum: Thiên Chúa Đấng Cứu Độ Tôi (c. 46-48)

Mẹ Ê-li-sa-bét ca tụng Mẹ Maria bằng lời chúc mừng: Phúc cho người phụ nữ đã tin! (Lc 1, 45) Đức Maria dâng lời tạ ơn và ca tụng cùng với tất cả những người sẽ thụ hưởng điều Mẹ đã lãnh nhận. Trong trình thuật này của Luca, chúng ta chứng kiến biến cố khai sinh của bài ca tán tụng bất hủ Magnificat. Bài ca diễn tả cả một kinh nghiệm vừa sâu vừa rộng về Thiên Chúa của Đức Mẹ. Và mỗi khi chúng ta đặt mình vào chủ thể « Tôi » của bài ca, chúng ta được mời gọi thực hiện cùng một kinh nghiệm về Thiên Chúa như Mẹ.

Kinh nghiệm Thiên Chúa của Đức Mẹ, trước hết, đó là kinh nghiệm : Thiên Chúa là Đấng cứu độ, và tiên vàn không phải Thiên Chúa, Đấng cứu độ loài người, nhưng là Thiên Chúa, « Đấng cứu độ của tôi ». Kinh nghiệm này làm cho con tim của Đức Mẹ thực sự « bừng cháy » và thốt lên lời ngợi khen Thiên Chúa, là Đức Chúa của mình.

Tĩnh từ sở hữu « của tôi », hay « của con » thật nhỏ bé và đơn sơ nhưng dấu ẩn cả một bí mật, một tương quan rất thiết thân. « Của tôi », « của con », « của bố », « của mẹ », « của anh », « của chị », « của em »… Khi nghe hay nói những từ này, lòng chúng ta hẳn đã xao động, bởi vì đó là ngôn ngữ của tình yêu. Thánh Inhã, trong các bản văn, khi nói tới Đức Kitô hay Thiên Chúa, ngài luôn thêm tĩnh từ sở hữu « của chúng ta » (x. Linh Thao 23 ; 158).

Ngoài ra, tĩnh từ sở hữu « của con » còn mang một vẻ nổi bật đặc biệt trong bối cảnh Kinh Thánh, bởi vì nó thuộc về ngôn ngữ của giao ước: Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là dân của ta. Qua lời giao ước, hai bên cam kết sẽ thuộc về nhau mãi mãi. Và tương quan thuộc về này của giao ước hoàn toàn không xa lạ với chúng ta. Thực vậy, qua phép rửa, « Thiên Chúa trở thành Thiên Chúa của con ; và con, con trở thành con của Thiên Chúa ». Tương quan giao ước này là nền tảng cho mọi tương quan giao ước khác, được diễn tả qua lời cam kết hôn nhân, lời cam kết chức thánh, lời tuyên khấn, lời tuyên hứa…

« Thiên Chúa là Đấng cứu độ », lời tuyên xưng này, đối với chúng ta trong thực tế, có thể đã trở thành một chân lí khách quan, thậm chí một công thức, vì thế không thực sự liên quan đến cuộc đời cụ thể và như nó là của mỗi người chúng ta, không diễn tả một kinh nghiệm thiết thân, không mang lại niềm vui ca tụng ; « Thiên Chúa là Đấng cứu độ », nhưng Ngài chưa thực sự là « Đấng cứu độ của con ». Kinh nghiệm của Đức Mẹ về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình, sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn này để đi vào tương quan « thuộc về nhau » với Thiên Chúa.

Trong tương quan thiết thân với Thiên Chúa, Mẹ Maria tự nhận mình là « nữ tì hèn mọn », và chắc chắn Mẹ luôn nhận mình là như thế, bởi lẽ trước đó trong biến cố Truyền Tin, Mẹ đã nói về mình : « Tôi đây là nữ tì của Đức Chúa » (Lc 1, 38). Vì thế, chúng ta nên từ bỏ não trạng thời Trung Cổ là thích gom góp mọi thứ tước hiệu mô tả sự vĩ đại và vẻ đẹp của Mẹ. Chúng ta hãy tôn trọng tước hiệu mà Mẹ tự nhận cho mình. Như thế, không còn là những đặc ân « ngoại thường » lôi kéo sự chú ý của chúng ta nữa, nhưng là Đức Trinh Nữ của Israel, « nữ tì hèn mọn của Đức Chúa », đại diện cho những người nghèo của Đức Chúa, đã sống một cuộc đời bình thường và đã tự xóa mình đi trước sứ mạng của Con Mình, để rồi lại xuất hiện trong giờ thử thách của Thập Giá. Chúng ta được mời gọi dõi theo một Đức Maria như thế/.

b. “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi” (c. 49)

Khởi từ thân phận « nữ tì hèn mọn », Đức Maria tuyên xưng : « Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả ». Mẹ hèn mọn nhưng lại được Chúa làm những điều lớn lao. Như thế, sự lớn lao của Mẹ hoàn toàn đến từ Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này là tâm điểm của bài ca Magnificat, bởi vì những gì Mẹ nói ở đầu chính là để dẫn đến kinh nghiệm thiết thân này, và từ kinh nghiệm thiết thân này, Mẹ nhận ra hành động của Thiên Chúa nơi nhân loại và nơi dân tộc của Mẹ.

Những gì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ, không trừu tượng chút nào, vì « Lời Chúa » đụng chạm đến thân xác, tâm hồn và cả cuộc đời của Mẹ. « Lời Chúa » chạm đến con người của Mẹ, hình thành nơi cung lòng của Mẹ, sinh ra và lớn lên trong cuộc đời của Mẹ, đồng hành với Mẹ cho đến tận cùng, và cuối cùng mãi mãi trở nên một với Mẹ. Nơi Mẹ, « Lời Chúa là hạt giống nhỏ, hứa hẹn cả mùa gặt bao la »[1] ; nơi Mẹ, Lời Chúa trở nên hiện hữu ở mức độ cô đọng nhất, nghĩa là ở mức độ « Ngôi Lời Thiên Chúa ».

Ngay lúc này Đức Mẹ đã cảm nhận được lời chúc khen của mọi thế hệ dành cho Mẹ, trong đó có lời chúc khen của thế hệ chúng ta hôm nay. Về phần Mẹ, luôn với cung cách của một « nữ tì », Mẹ chúc khen Thiên Chúa : « Danh Người thật chí thánh chí tôn », bởi vì tất cả tất cả những gì Thiên Chúa làm cho Mẹ là do lòng đoái thương hoàn toàn nhưng không.

c. “Chúa hằng thương xót” (c. 50-55)

Khởi đi từ kinh nghiệm bản thân, về những gì Thiên Chúa làm cho mình, Đức Mẹ trong bài ca Magnificat khám phá ra cách hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử con người và nhất là trong dân tộc mình : như Thiên Chúa đã đoái nhìn đến phận nữ tì của Mẹ, Thiên Chúa cũng bày tỏ lòng thương xót với

  • những ai kính sợ Người,
  • những người khiêm nhường,
  • những người đói nghèo.

Và Đức Mẹ cảm nhận Thiên Chúa tỏ bày lòng thương xót một cách duy nhất và đặc biệt với Israel, tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, không phải vì Israel « đạo đức thánh thiện » nên Chúa trả công, nhưng bởi vì Ngài nhớ lại lời hứa thủy chung đến muôn đời của Ngài ngay từ buổi khởi đầu. Tuy nhiên, lời của Mẹ cũng thật mạnh mẽ, nếu không muốn nói là dữ dội, khi diễn tả cung cách của Thiên Chúa đối với

  • phường lòng trí kiêu căng,
  • những ai quyền thế,
  • những người giàu có.

Vì đó là những lựa chọn ngẫu tượng, nghĩa là lựa chọn hư vô : ngẫu tượng dang vọng, ngẫu tượng quyền bính, ngẫu tượng vật chất. Những Lời này của Mẹ hôm nay, một ngày kia sẽ trở thành lời của chính Đức Giêsu, Con của Mẹ, trở thành chính cung cách hành xử của Ngài ngang qua Thập Giá, để giải phóng con người khỏi mọi thứ ngẫu tượng bằng cách bắt chúng phải lộ diện, và đồng thời bày tỏ khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa cho con người.

*  *  *

Mỗi khi đọc hay hát bài ca Magnificat của Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi nhận lời của Mẹ làm của mình, nếu không lời của chúng sẽ chỉ là giả tạo. Nhận lời của Mẹ làm của mình, điều này có nghĩa là kinh nghiệm Thiên Chúa thực sự là « Đấng cứu độ của tôi », bằng cách nhận ra những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đúng là chúng ta không được ban những ơn cao cả như Đức Mẹ, nhưng chúng ta được thụ hưởng, được chia sẻ những gì Mẹ đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Và chỉ khởi đi từ kinh nghiệm thiết thân về Thiên Chúa, mà chúng ta mới có thể nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho người khác, trong cộng đoàn, Hội Dòng… và dân tộc Việt Nam.

 

 

Cuối cùng, chính khi chúng ta có cùng một kinh nghiệm về Thiên Chúa, cả cuộc đời của chúng ta sẽ trở thành bài ca Magnificat, tán tụng Thiên Chúa, như cuộc đời của Mẹ Maria, « Nữ Tì Hèn Mọn » của Đức Chúa.

 

Mùa Vọng 2017
Lm Giuse Nguyễn Văn Văn Lộc

[1] Bài hát “Comme un souffle fragile” (Như Hơi Thở Mong Manh), của Pierre Jacob : ĐK. Như hơi thở mong manh, Lời Chúa trao ban chính mình. Như chiêc bình bằng sành, Lời Chúa nhào nắn chúng con. TK 1. Lời Chúa là câu thì thầm, như điều bí ẩn của tình yêu. Lời Chúa là vết thương đau, mở ra cho chúng con ngày mới. TK 2. Lời Chúa là sự sinh ra, như ta ra khỏi chốn tù đày. Lời Chúa là hạt giống nhỏ, hứa hẹn cả mùa gặt bao la. TK 3. Lời Chúa là cuộc chia sẻ, như ta cắt nhỏ tấm bánh lớn. Lời Chúa là lối băng qua, nói cho chúng con cả một con đường.

Kiểm tra tương tự

Chúa ơi, bây giờ con phải làm gì ?

  “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?” (Lc3,10-18)   Trong đoạn Tin Mừng …

Món Quà Giáng Sinh – Suy tư Tin Mừng CN 4 Mùa Vọng năm C

  Giáng sinh là khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong năm đối với phần …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *