Xin giới thiệu bạn đọc bài viết về ‘Đạo Hiếu Trong Ki-tô Giáo’ của Lm. Phê-rô Đinh Ngọc Lâm, C.Ss.R. Ngài là thành viên của ban mục vụ Đối Thoại Liên Tôn, và bài viết này đã được đăng trên tập san ‘Nhịp Cầu Tạm Giao’ số 2 & 3.
———————————————————————-
Nếu không lưu ý về tôn giáo, ta có thể nói rằng Dân tộc ViệtNamcùng chung phần tham dự vào một nền văn hóa, những phong tục tập quán và những niềm tin. Chính vì điều này mà người ta có thể dễ dàng nhận ra một người ViệtNamở bất cứ nơi đâu trên thế giới.
Đặc biệt người Việt Nam dù thuộc Phật giáo, Cao Đài, Hồi giáo, Kitô giáo hay bất kỳ một tôn giáo nào khác tại Việt Nam, người ấy dường như không thể chối bỏ rằng mình được dìm sâu trong cái gọi là “Đạo Hiếu” của truyền thống Dân tộc Việt Nam, cách bình dân gọi là “Đạo Ông bà.”[1]
I. Đạo Hiếu trong Truyền Thống của người Việt Nam
Người Á châu nói chung, và người ViệtNamnói riêng rất trọng chữ hiếu. Như thế, ta có thể nói rằng cho dù người ấy thuộc bất kỳ tôn giáo nào dường như đã được nuôi dưỡng trong cách sống “hiếu nghĩa” với những bậc sinh thành ra mình, khi các ngài còn sống cũng như khi các ngài đã khuất. Thế nên, người ViệtNamđược dạy rằng:
Công cha nghĩa mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ[1] song thân.
Điều này được nhấn mạnh hơn nữa rằng:
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Vậy, những yếu tố này hình như đã cấu thành nên việc “thờ kính ông bà tổ tiên,” trở nên gần như một tôn giáo theo nghĩa rộng mà ta thường gọi là “Đạo Ông Bà.” Một người (thuộc bất kỳ tôn giáo nào) chỉ là người con có hiếu thực sự khi người ấy biết học làm thế nào để chăm sóc, tôn trọng và kính mến cha mẹ, ông bà, và để hiến dâng cuộc sống của mình cho gia đình.[2]
Việc “hiếu kính” ông bà cha mẹ của người Việt Namcòn mang một ý nghĩa sâu hơn nữa qua việc kính nhớ đến những bậc sinh thành ra mình khi đã khuất. Có lẽ, họ không tổ chức lễ mừng sinh nhật của các ngài hằng năm, nhưng ngày các ngài chết và dịp lễ Tết con cháu lại kính nhớ các ngài cách đặc biệt. Trong những ngày ấy, các thành viên của gia đình rộn ràng chuẩn bị những lễ vật như hoa trái và nhang đèn nơi bàn thờ tổ tiên của gia đình, để tưởng nhớ và tôn kính đặc biệt tổ tiên của mình. Đó là thời khắc thật linh thiêng giúp cho mọi người (thuộc bất kỳ tôn giáo nào) xóa bỏ đi được những hiểu lầm và xung đột trong quá khứ, để rồi có thể đạt được an bình, yêu thương, hạnh phúc và hợp nhất gia đình và cộng đồng của mình trong tương lai.[3] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông Huấn Hội Thánh tại Á Châu, cũng công nhận đặc tính này: “Người Á châu rất quý trọng các giá trị như tôn trọng sự sống, từ bi với mọi loài, gần gũi thiên nhiên, hiếu thảo với cha mẹ, người lớn và tổ tiên…”[4] Đặc biệt, Công Đồng Vaticanô II khẳng định Thiên Chúa hiện diện nơi những nền văn hóa khác nhau, vì “khi tự mạc khải cùng dân Ngài cho tới khi tỏ mình đầy đủ trong Chúa Con nhập thể, Thiên Chúa đã nói theo văn hóa riêng của từng thời đại.”[5] Công Đồng Vaticanô II nói tiếp rằng văn hóa là “những quà tặng và những nét đặc biệt thuộc tinh thần của mọi người và mọi thời đại.” Có nhiều đường nối kết giữa sứ điệp của ơn cứu độ và văn hóa nhân loại. Công Đồng thúc giục các tín hữu Công giáo nên sống thân thiện với những truyền thống tôn giáo và quốc gia của mình và kính cẩn khám phá ra “những hạt giống của Lời Chúa đang tiềm ẩn nơi các truyền thống ấy.”[6] “Đạo Hiếu” trong nền văn hóa ViệtNam là một nền tảng rất quan trọng cho việc đối thoại liên tôn giữa Hội thánh Công giáo và các tôn giáo khác.
II. Đạo Hiếu trong Đời sống Kitô giáo
“Đạo Hiếu” như được đón nhận và sống cách tự nhiên trong cuộc sống của người ViệtNamở mọi thời và mọi nơi. Như thế, nó có thể được gọi như là “hạt giống của Lời” đã được gieo vào dòng máu con tim của dân Việt qua muôn vàn thế hệ. Ngày nay khi gặp được Tin Mừng soi chiếu, nó được nhận ra như một phần không thể thiếu được của toàn bộ đời sống của Kitô hữu. Vậy Kitô giáo dạy gì về đời sống hiếu nghĩa?
Kinh Thánh dạy rất rõ về đời sống hiếu nghĩa của con cái phải có đối với những bậc sinh thành ra mình. Trước hết, trong Cựu Ước, một trong những giới luật nổi bật quan trọng về lòng thảo hiếu đối với mẹ cha là “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20, 12).
Việc thảo kính mẹ cha còn được cụ thể hóa bằng những lời khuyên dạy cho những bậc làm con, như sách Cách Ngôn dạy rằng:
“Này con, giáo huấn của cha, con hãy nghe, lời dạy của mẹ, con đừng gạt bỏ. Vì những lời ấy sẽ là vòng hoa xinh con đội lên đầu, là vòng kiềng con đeo vào cổ” (Cn 1, 8-9). Hay người con hiếu thảo là người con biết tuân giữ lời cha truyền và nghe lời mẹ dạy: “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ, lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai. Những lời truyền dạy đó, con hãy khắc trong tim, con hãy đeo vào cổ, để ghi nhớ đêm ngày. Những lời đó sẽ hướng dẫn con lúc con tới lui, sẽ giữ gìn con khi con nằm xuống, sẽ cùng con chuyện trò khi con thức dậy” (Cn 6, 20-22). Chính trong cách sống hiếu nghĩa người con sẽ làm cho cha mẹ được mừng vui hạnh phúc: “Hãy lắng nghe cha con, đấng sinh thành ra con, đừng khinh dể mẹ con khi người già yếu. Chân lý và khôn ngoan, nghiêm huấn và hiểu biết, con hãy mua lấy chứ đừng bán đi. Thân phụ người công chính sẽ mừng vui, đấng sinh thành người khôn sẽ hoan hỷ. Ước gì cha mẹ con được hỷ hoan và người sinh ra con được mừng rỡ” (Cn 23, 22-25). Con người sống theo luật hiếu thảo của Thiên Chúa lại được cụ thể trong lời mời gọi hãy ghi nhớ công ơn cha mẹ, nói như sách Huấn ca dạy rằng: “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7, 27-28). Cụ thể hơn nữa, sách Huấn Ca còn dạy bảo cho những người làm con sống lòng hiếu thảo là một nghĩa vụ đối với cha mẹ, và họ sẽ được chúc phúc và được đẹp lòng Thiên Chúa:
“Hỡi các con, hãy nghe cha đây, và làm thế nào để các con được cứu độ. Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ chủ nhân. Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, để nhờ người mà con được chúc phúc. Vì phúc lành của người cha làm cho cửa nhà con cái bền vững, lời nguyền rủa của người mẹ làm cho trốc rễ bật nền. Chớ vênh vang khi cha con phải tủi nhục, vì nỗi tủi nhục đó chẳng vinh dự gì cho con. Quả thật, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính; và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh chê. Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời. Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa.” (Hc 3, 3-16).
Trong Tân Ước, Đức Giêsu đã ủng hộ và đòi hỏi sống đạo hiếu không chỉ trong lời nói nhưng phải cụ thể hóa trong hành động sống của chúng ta. Ngài nhắc lại luật hiếu thảo trong Xh 20, 12 và Lv 20, 9: “Bất cứ người nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Nó đã nguyền rủa cha mẹ, thì máu nó đổ xuống đầu nó,” để nói với những kẻ đạo đức giả trốn tránh trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ mình:
“Còn các ông, các ông lại bảo: “Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa”. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15, 5-9).
Do đó, những kẻ làm con luôn được kêu gọi hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều phải đạo, thánh Phaolô dạy rằng: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20). Đó là giới răn thứ nhất để được sống và sống hạnh phúc trên trần gian này: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
Đức Giêsu, trong thân phận con người cũng đã sống lòng hiếu thảo ấy cách toàn vẹn trong cuộc sống của Ngài. Trước tiên Ngài sống hiếu thảo với Cha trên trời, một theo ý Cha và thực hiện ý Cha trong cuộc đời Ngài: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34). Trước lòng hiếu thảo ấy, Thiên Chúa Cha đã phải thốt lên: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3, 17). Lòng vâng phục hiếu thảo ấy với Cha trên trời thế nào, lại được sống triệt để trong đời sống làm con với thánh Giuse và Mẹ Maria tại gia đình Nadarét, cũng tuyệt vời như thế: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 51-52).
Hội thánh là dân Thiên Chúa, sống theo gương Đức Giêsu trên con đường hiếu thảo với Cha trên trời và cũng cụ thể lòng hiếu thảo ấy đối với các bậc sinh thành ra mình, không ngừng dạy các tín hữu về bổn phận của con cái phải có đối với cha mẹ.[7] Như thế, “sự tôn kính của con cái (sự hiếu thảo) đối với cha mẹ là tình cảm tri ân đối với những vị đã ban sự sống và dùng tình yêu thương và công khó nhọc để sinh thành và nuôi dưỡng con cái cho khôn lớn về thể xác, về khôn ngoan và về ân sủng.”[8] Đặc biệt, lòng hiếu thảo tri ân ấy còn được mở rộng đến tất cả những ai đã sinh thành và nuôi dưỡng người tín hữu qua việc lãnh nhận và sống đức tin của mình.[9]
Lòng hiếu kính của tín hữu không những chỉ đối với các vị còn sống mà còn phải được sống lòng hiếu nghĩa ấy với những vị đã qua đời (ông bà, cha mẹ, tổ tiên …). Thế nên Hội thánh dạy bảo các tín hữu phải chu toàn đạo hiếu: tôn kính biết ơn và vâng lời ông bà cha mẹ trong những điều chính đáng; chăm lo cho cha mẹ được đầy đủ phần xác cũng như phần hồn; khi cha mẹ qua đời phải lo việc tang ma, làm các việc thiện, cầu nguyện và dâng lễ cho các ngài, đặc biệt trong những ngày các ngài qua đời cũng như trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời (tháng 11 hằng năm, đặc biệt ngày mùng 2 tháng 11) hay dành đặc biệt ngày mùng 2 Tết cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ và tổ tiên. Vì vậy, Hội thánh Công giáo Việt Nam cũng đã có những chỉ dẫn rất cụ thể về việc tôn kính ông bà tổ tiên, đề cập đến: Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên; việc đốt nhang hương, đèn nến và vái lạy trước bàn thờ Tổ Tiên; trong hôn lễ, dâu rể được làm nghi lễ Tổ và Gia Tiên trước bàn thờ; trong tang lễ, được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương; được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng. Thật thế, trong quyết nghị về Lễ Nghi Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên nói rằng: “Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách thế tục lịch sự xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động.” Khi thi hành các việc trên đây để tránh có sự hiểu lầm nên cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền phải “thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.[10]
III. Một vài gợi ý trong việc Đối Thoại Liên Tôn
Trong một thế giới đa nguyên văn hóa và tôn giáo như ngày hôm nay, dường như những giá trị tôn giáo và văn hóa truyền thống đang bị đe dọa. Cụ thể, điều chúng ta đang nói đến là “Đạo Hiếu” cũng đang bị lung lay và đe dọa trầm trọng. Sự xuống dốc về mặt đời sống này xuất phát từ những đổ vỡ gia đình, từ những quan niệm sống buông thả hay từ những tác động của sự ích kỷ, hưởng thụ của con người trong thế giới hôm nay. Vì thế, chúng ta dù thuộc tôn giáo nào đi nữa, cần phải chung vai góp sức vào việc duy trì và đẩy mạnh tinh thần hiếu thảo trong tâm thức người Việt Nam nói chung và người trẻ nói riêng, ở những cấp độ khác nhau.
Ở cấp độ gia đình (đặc biệt gia đình Kitô giáo), sống hiếu thảo phải được đào luyện dạy dỗ ngay từ thuở còn thơ: dạy cho biết gia phong lễ nghĩa, dạy cho biết kính trên nhường dưới, dạy cho biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Như thế, con người sẽ tập được những đức tính cần thiết trong cuộc sống của người con hiếu nghĩa: tình yêu chân thật, hy sinh và quên mình, kiên nhẫn và tha thứ, từ bỏ ý riêng và tôn trọng người khác, quan tâm và chia sẻ với người khác… Một khi con cái được giáo dục về lòng hiếu thảo và sống đạo hiếu ấy trong cuộc đời mình, chúng sẽ trở nên người con hiếu thảo: biết vâng lời cha mẹ, biết coi trọng lời khuyên bảo dạy dỗ của mẹ cha, sẽ thành công trong cuộc sống gia đình và xã hội.
Trong mái ấm gia đình cũng cần phải có một bàn thờ tôn kính tổ tiên (hay bàn thờ gia tiên). Việc làm này thật ý nghĩa về mặt giáo dục lòng hiếu thảo cho mọi thành viên trong gia đình, nhắc mọi người rằng: “ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn.” Điều này gợi cho tôi nhớ đến một hình ảnh thật đơn sơ của các tín hữu tại An Thới Đông, diễn tả lòng biết ơn với đấng sinh thành ra mình không chỉ dừng ở bàn thờ tổ tiên mà đưa họ đến tới bàn thờ của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên các bậc sinh thành ra mình. Chuyện xảy ra, khi chúng tôi đi thăm và chúc tuổi bà con nhân dịp đầu năm mới, chúng tôi thấy nhà nào cũng có bàn thờ ông bà tổ tiên phía dưới bàn thờ Thiên Chúa. Khi thấy trên bàn thờ ông bà tổ tiên có nhang nhỏ hơn nhang trên bàn thờ Thiên Chúa và hoa trái cũng không đẹp và lộng lẫy bằng trên bàn thờ Thiên Chúa, chúng tôi hỏi tại sao vậy? Họ trả lời rằng: «Nhờ Thiên Chúa mà chúng tôi có ông bà cha mẹ. Do đó, Thiên Chúa phải là phần nhất. Ngài là cội nguồn phát sinh mọi sự, từ Ngài mới có ông bà tổ tiên».
Một đại gia đình gồm có những thành viên thuộc các tôn giáo khác nhau cũng có thể tổ chức những nghi lễ: mừng thượng thọ ông bà cha mẹ, giỗ tổ tiên (vào dịp ngày mất của các ngài hay lễ tết), cầu bình an cho ông bà cha mẹ và gia đình,… nhưng có thể cầu nguyện theo nghi lễ tùy vào niềm tin của mỗi người. Được như thế, chúng ta thiết nghĩ rằng mọi người sẽ gắn kết và yêu thương nhau hơn và nhất là sẽ một lòng tỏ bầy tình hiếu thảo với cha mẹ bằng tình yêu hiệp nhất trong cùng một dòng máu của một tổ tiên chung.
Ở cấp độ xã hội hay cộng đồng, trong những dịp đầu năm mới hay các lễ hội giỗ và tôn kính các vị thành hoàng để tỏ lòng biết ơn các bậc tiền bối, các người của các tôn giáo khác nhau có thể cùng nhau tổ chức những lễ nghi theo niềm tin tôn giáo riêng của mình tại một địa điểm trang trọng của cộng đồng của mình (ví dụ: tại khuôn viên của nhà chùa, nhà thờ hay thánh thất…). Việc làm này khuyến khích mọi người Việt Nam dù thuộc bất kỳ tôn giáo nào, hãy phát huy tinh thần hiếu thảo đối với tổ tiên chung, nhằm tăng thêm lòng yêu nước thương nòi giữa những người Việt Nam hôm nay.
Xa hơn nữa, những người thuộc các tôn giáo khác nhau có thể quan tâm và hiệp thông với nhau trong những ngày lễ hội đặc biệt để nhớ ơn và cầu nguyện cho cha mẹ – còn sống hay đã khuất – như lễ Vu lan của Phật giáo; lễ cầu nguyện cho tổ tiên (ngày mùng 2 Tết Âm lịch) và tháng các đẳng cầu nguyện đặc biệt cho ông bà, cha mẹ và tổ tiên (những bậc tiền nhân đã khuất) của đạo Công giáo; ngày giỗ tổ tiên của những người thuộc Đạo Ông Bà theo truyền thống,… Khi đó, những người thuộc các tôn giáo khác nhau có thể thăm hỏi, thư từ hiệp thông, chúc mừng, cầu nguyện hay có thể mời nhau tham dự các nghi lễ trong những dịp quan trọng này. Việc làm này sẽ giúp cho chúng ta học tập nhau về cách diễn tả lòng hiếu thảo được đào sâu và sống qua những gì ta gọi như “hạt giống của Lời” đã và đang được gieo vào trong lòng con người tôn giáo Việt Nam.
Ngày nay người trẻ đang chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Âu-Mỹ, mừng ngày của CHA và ngày của MẸ. Chúng ta là những người của tôn giáo có thể tổ chức cho các em thiếu nhi, giới trẻ sống lòng hiếu thảo cụ thể bằng hành động trong gia đình vào những ngày đó, cho các em dâng lên cha và dâng lên mẹ mình những lời chúc mừng, những lời tri ân và những đóa hoa sinh tươi gói ghém tấm lòng hiếu thảo của mình thì ý nghĩa biết bao.
“Đạo Hiếu” trong Kitô giáo là để sống chứ không phải để giữ. Ta sống “Đạo Hiếu” là ta đang thông truyền chính sự sống ấy từ thế hệ này qua thế hệ kia và tồn tại mãi trong con tim và cõi lòng của mỗi người, dù người ấy là ai và thuộc tôn giáo nào. Đặc biệt đối với các kitô hữu thấy sâu sắc hơn rằng, nếu họ không hiếu thảo với ông bà cha mẹ hữu hình trên trần gian thì làm sao họ có thể hiếu thảo thật sự với Thiên Chúa, người CHA vô hình trên trời được! Như vậy lòng hiếu thảo đối với cha mẹ dưới đất, chính là sự phản ảnh và thước đo của lòng hiếu thảo và tình yêu của Kitô hữu đối với CHA trên trời. Do đó, các Kitô hữu càng yêu mến Thiên Chúa Cha thì càng thể hiện tình yêu thương ấy trong lòng hiếu thảo đối với cha mẹ mình và sẵn sàng cống hiến cuộc sống của mình cho tha nhân. Có như thế Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu cũng là Cha của mọi người, cũng sẽ nói với chúng ta cách tương tự như đã nói với Người con yêu dấu của Ngài: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3, 17).
Kết luận
“Đạo Hiếu” không là cái gì của riêng ai hay của một tôn giáo nào, nhưng của tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ. Nó như một quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, gieo vào cõi lòng con người, để dẫn dắt con người về với chân thiện mỹ hay để con người trở về với Đấng là Chân Lý vẹn toàn. Như vậy, “Đạo Hiếu” có thể nói như là hạt giống của Lời hay tia sáng của Chân Lý chiếu dọi muôn người. Qua đó, những hạt giống và tia sáng đó dẫn đưa nhân loại về với cùng đích của mình, về với Đấng là nguồn cội phát sinh muôn loài muôn vật là, CHA của mọi người và mọi người là anh em của nhau dù còn trong các khác biệt về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo hay gia tộc trần thế trong cuộc sống hôm nay; nhưng tất cả mọi người được kêu gọi hãy sống hiếu thảo với cha mẹ và Thiên Chúa nói: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20, 12).
Lm. Pet. Đinh Ngọc Lâm, DCCT
1 Chữ “thờ” hiểu theo nghĩa của người Việt Nam là “thờ kính” cha mẹ, các đấng sinh thành dưỡng dục mình với tất cả tình yêu và sự sống của các ngài, nên quả là đáng cho chúng ta phải thờ kính các ngài, chứ ta không hiểu như “thờ phụng” Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài muôn vật.
[2] x. Đinh Ngọc Lâm, Đối Thoại Liên Tôn (TP. Hồ Chí Minh, 2009), tr. 172.
[3] x. Đinh Ngọc Lâm, Đối Thoại Liên Tôn, tr. 173-174.
[4] GioanPhaolo II, Tông Huấn: Hội Thánh tại Á Châu, số 6.
[5] Gaudium et Spes, số 58.
[6] Ad Gentes, số 11.
[7] x. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG), số 2214 – 2220.
[8] x. GLHTCG, số 2215.
[9] x. như trên, số 2220.
[10] Gm. Philiphê Nguyễn Kim Điền, Gm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Quyết Nghị về Lễ Nghi Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên, trong http://www.bmvgia dinh.org/?open=contents&display=2&id=1440 ngày 26.7.2010.