II. TRÊN NHỮNG MIỀN SỨ MẠNG
Năm 1567, Tổng quản Borja thành lập Nhà tập thánh An-rê ở Quirinal, và một năm sau đã có một vị thánh xuất thân: Stanislaus Kostka.
Sứ mạng chính yếu hướng vào giáo dục
Rất nhiêu thành phố yêu cầu Dòng Tên đến mở trường(Atri, Benevento, Capua, Pozzuoli, Cosenza..), Dòng phải lưu ý rằng Italia không phải là nơi duy nhất xin người.
Đặc biệt nổi tiếng ở Ý là Học Viện Rô-ma. Chính BTC đã triệu tập về đây những tên tuổi nổi tiếng thuộc các lĩnh vực: Christoph Klau (người Đức, toán học – người đã thực hiện việc cải cách lịch thường được gọi là lịch Gregory), Francisco de Toledo và Francisco Suarez (người TBN, thần học thực chứng), Pierre Perpinien (Pháp, nhân bản học).
Đặc biệt nổi tiếng là Robert Bellarmine (Ý, người dấn thân vào những cuộc tranh luận thần học để bảo vệ GH) với kiệt tác Inquiries into Controverted Points of the Christian Faith Xem xét những điểm gây tranh cãi trong niềm tin Kito giáo ( giải quyết những vấn nạn căn bản mà phong trào Tin Lành đặt ra). Tác phẩm này có ý nghĩa:
Nhấn mạnh tính cơ cấu và Pháp lý của Giáo Hội (bên cạnh nhìn nhận đó là một thân thể mầu nhiệm của ĐKT.
Quyền tối thượng của ĐGH.
Đặt nền tảng cho suy tư của Giáo Hội trong 3 thế kỷ tới.
Đến với quần chúng thông qua các hội đoàn thay vì tiếp xúc trực tiếp (vì không đủ nhân sự)
Các hội đoàn lập ở khắp nơi: Trapani, Padua, Messina…với những đặc điểm:
Nhấn mạnh đến suy niệm, rước lễ, xét mình
Hướng đến những người cùng khổ, ít học…
Thành phần đa dạng của các hội đoàn: luật sư, nghệ sĩ, giới trẻ, công chức…
Đóng góp tại công đồng Tren-tô (1545 – 1563)
Sự hiện diện của các GSH (gồm Jay, Peter Canisius, Laynez, Salmeron) đã mang lại sự khích lệ lớn lao cho các nghị phụ.
Các GSH đã tham gia trong những phiên họp toàn thể, trình bày những báo cáo, tham luận… trên nhiều chủ đề: quyền tối thượng của ĐGH, thẩm quyền giám mục, tính hiến tế trong thánh lễ và các bí tích. Có thể nói những đóng góp của các ngài đã mang đến sự thành công của Công Đồng.
Bên cạnh đó, sau công đồng, các GSH cũng tận dụng kỹ thuật mới – in ấn để phổ biến các tư tưởng mới trong thần học liên quan đến các bí tích, kinh thánh… cũng như các môn khoa học nhân văn.
Ở Ý, Dòng Tên cũng dấn thân vào lãnh vực kiến trúc
Tiến hành xây nhà thờ Giesù – một tiêu biểu cho kiểu kiến trúc Baroque trong tôn giáo: kiểu kiến trúc chú trọng thể hiện tính trang nghiêm, hùng vĩ nhờ những mái vòm, đường cong lớn kết hợp với sự phản chiếu ánh sáng nhiều tầng lớp. Kiến trúc Baroque thích hợp hơn với các nhà thờ còn ở việc tạo nên độ âm vang tốt, không gian thoáng đạt (ít cột so với kiểu kiến trúc Phục Hưng), rất thích hợp đối với việc giảng thuyết.
Khó khăn từ chính chính quyền Tây Ban Nha (áp lực từ Phillip II)
Vấn đề Antonio de Araoz. Vốn là con người hết sức trách nhiệm và giúp Dòng ở TBN có chỗ đứng, nhưng vì đầu óc quốc gia hẹp hòi, Araoz quay ra làm khó Dòng : chống việc nhận người gốc Do Thái vào Dòng, chống việc gửi tiền giúp học viện Roma, yêu cầu chức vụ Giám Tỉnh phải được bầu bởi Công Hội Tỉnh…
Vấn đề bất tuân của các GSH khác khi quá đà trong việc hãm mình phạt xác mà quên đi chiều kích tông đồ của Dòng. Nhiều GSH trở thành đan sĩ, thậm chí tập sư ở Montilla cũng huấn luyện tập sinh theo hướng này. Mecurian đã hành động cách cứng rắn để giải quyết việc này, tuy nhiên kết quả chưa thấy rõ ràng.
Tại Bồ Đào Nha
Dòng phát triển khá mạnh sự nghiệp giáo dục vì sự hậu thuẫn của nhà cầm quyền. Học viện Coimbra được quốc vương ưu ái đầu tư, và Hồng y Henry đã biến thành phố Evora (phía đông của Lisboa) thành một trung tâm tri thức khi đặt 3 học viện ở đây dưới sự bảo trợ của Dòng. Cả Coimbra và Evora đều đã đón chào vị một trong những vị thần học gia và triết gia lỗi lạc của Dòng : Pedro da Fonseca – tác giả của tác phẩm Dialectics và 4 tập chú giải về SHH của Aristotle.
Tuy nhiên, từ năm 1580, BĐN bắt đầu bị TBN xâm lược và đô hộ trong 60 năm, các công cuộc của GSH BĐN cũng chùng xuống.
Mặc cho tình hình chính trị khó khăn thời nhiếp chính của Catherine de Médicis, Dòng vẫn phát triển, năm 1575, ở Pháp có hai tỉnh Dòng 315 GHS, năm năm sau, ở Pháp có 15 đại học do Dòng đảm nhiệm.
Dấn thân vào sứ vụ giáo dục là một đặc tính của Dòng Tên tại Pháp. Tuy nhiên, Dòng không được chào đón ở Paris, nhưng tập trung chủ yếu ở trung và nam của Pháp.
Thông qua những người có địa vị cao cấp (Hồng y, Giám mục, nghị viên), Dòng đã đi vào đời sống văn hóa, tôn giáo của Pháp[2]. Đặc biệt, các trường học của Dòng trở nên một thứ thành lũy cũng như chiến tuyến trong quá trình đẩy lui tin lành theo hệ phái Calvin. Tuy nhiên, công cuộc này vấp phải hai khó khăn lớn: nghèo đói và chiến tranh.
Nghèo đói: Các giám mục ủy thác trường nhưng lại thiếu chăm lo đời sống vật chất cho các GSH (trừ giám mục thành Tournon và giám mục Guillaume), hệ lụy là nhiều nơi, các cha phải sống trong cảnh tồi tàn, nhiều khi thực phẩm chỉ có nho khô, bánh mì và nước lã.
Chiến tranh: Cuộc đụng độ giữa Tin Lành và Công Giáo diễn ra khắp nơi, nhất là ở Pháp, vì thế, nhiều khi các GSH phải đi lánh nạn ở nơi khác (ví dụ trường hợp ở Tournon và Pamier.
Một trong những tên tuổi trong số các GSH Pháp là Emond Auger – nhà giảng thuyết lừng danh được sánh với Canisio của Đức.
Các thừa sai đã nhanh chóng đưa được nhiều người trở về với GH: Antonio Possevino, chỉ trong một vài ngày đã đưa khoảng 2 ngàn người quay trở về với Giaó Hội; và Belgian Olivier Mannaert đã đưa 4000 người của Dieppois cũng trở về với GH.
Bên cạnh đó, Dòng cũng dấn thân phục vụ người nghèo, và chấp nhận hi sinh vì sứ mạng này : Cha Broet – Giám tỉnh đầu tiên của Pháp đã ngã xuống khi phục vụ những người bị dịch bệnh vào 14/9/1562. Kế đó nhiều người khác cũng ngã xuống ở Agvinon, Bordeaux, Paris, Bourges… Trong sứ mạng này, tính chung Dòng (thế giới) đã có 2094 người ngã xuống[3].
Do ảnh hưởng mạnh của những người theo trường phái cải cách tin lành (Calvin) và nhóm thuộc Gallileo, hai nhóm này có ảnh hưởng khá mạnh trên nghị viện Paris, vì thế, mặc dù nhiều lúc quốc vương muốn ưu ái Dòng, nhưng trở lực luôn đến từ Nghị viện khiến quá trình Dòng được công nhận tại Pháp thật gian nan. Chỉ được thừa nhận cách giới hạn sau hiệp ước Poissy năm 1561 : chính vị nhiếp chính của Pháp (Catherine de Medicis) đã triệu tập một cuộc tranh luận tôn giáo tại Poissy với sự tham dự của 46 giám mục Công Giáo trong lúc Công Đồng Trente đang diễn ra. Điều này thật nguy hại, và ĐTC Pio IV đã gửi Laynez và Polanco đến đây.
“Cuộc chiến” tại Poissy diễn ra rất căng thẳng, và cuối cùng để có thể trụ lại ở Pháp vì những mục tiêu lớn lao hơn (đẩy lui phong trào Tin Lành), Dòng đã chấp nhận những điều kiện thiệt thòi về mình để có thê được công nhận: Dòng được nhìn nhận không với tư cách một Dòng tu nhưng với tư cách là một liên hợp và là một đại học, chính yếu vì Nghị viện Paris (cũng như nhiều giám mục) muốn loại trừ những đặc ân từ Giáo Hoàng của Dòng, muốn Dòng phải phục quyền họ… Laynez chấp nhận những điều kiện này để Dòng có thể ở lại Pháp. Và đại học Clemont sẽ được Dòng nhắm đầu tư để trở thành một đại học thời danh, làm tiền đồn trong việc chống Tin Lành bằng con đường tri thức.
Tại đại học Clemont, với sự xuất hiện của Miguel Venegas và Maldonado, việc giảng dạy các môn triết, văn chương có một hình thái mới, nhiều sinh viên ưa thích và theo các lớp mới này, điều này khiến cho các giáo sư khác (vốn theo trường phái Calvin) không hài lòng, sinh lòng thù hận, tình trạng chia rẽ tại đại học Clemont càng trầm trọng. Cuối cùng, cha Maldonado phải rời khỏi đại học Clemont.
Cuối giai đoạn này, Dòng vẫn hoạt động tại Paris (bên cạnh những vùng khác của Pháp), nhưng những mối căng thẳng thì vẫn còn.
1555, hòa ước tôn giáo được ký kết ở Augsburg giữa Tin Lành và Công Giáo.
Dòng thăng tiến đều, góp phần vào việc canh tân đời sống thiêng liêng của GH.
Năm 1579, tỉnh Dòng Rhincland (14 năm trước, tức 1564 tỉnh Dòng Bỉ đã tách ra từ đây) đạt con số 234, và tỉnh Dòng Đức Thượng (16 năm trước tỉnh Áo cũng phát sinh từ đây, tức năm 1563) có 170 người.
Đến 1585, tỉnh Áo có 210 người.
Tại đây, Dòng cũng dấn thân mạnh mẽ vào giáo dục, coi như một đặc nét trong sứ mạng : trường được mở ở nhiều nơi với số lượng sinh viên ngày càng đông. Ở Trier số sinh viên tăng từ 550 lên 1030 trong vòng 14 năm (1564-1570), ở Wuzburg tăng từ 160 lên 700 (từ 1568 – 1588). Điều đáng lưu ý là trong bối cảnh xáo trộn về tôn giáo do phong trào Tin Lành, nhiều sinh viên đã rời bỏ quê hương để đến với các đại học ở Paris, Louvain, Pavia.
Người tín hữu đang rời bỏ niềm tin truyền thống vì Tin Lành
Hồng y Stanislaus Hosius và vua Stephen Bathory đã mở một con đường cho sự hợp tác với các Giêsu hữu góp phần đưa Ba Lan Tin Lành về Công Giáo.
1569, Tin Lành nắm ½ số ghế trong Nghị viện, 1600- 2000 nhà thờ rơi vào tay Tin Lành
Hai nguyên nhân: hàng giáo phẩm yếu; vua vừa thiếu kiên quyết vừa không có kiến thức về thần học
1565, Stanislaus Hosius đã mời các GSH tiếp cận một học viện ở phía đông Prussia thuộc Braunsberg
1575, vua Stephen Bathory mang Dòng Tên đến Kraków thuộc Little Poland, đến Riga thuộc vùng Livonia và đến Polotsk thuộc Lithuania. vua đã nâng cấp hai học viện lên bậc đại học.
Người Balan đã đón nhận Dòng, đến lượt mình Dòng đã đáp trả lại:
1575 Mecurian thiết lập Tỉnh Dòng Ba Lan (chỉ sau 10 năm đặt nền móng – đại học)
Người Balan đã đăng kí vào các lớp này, họ đã bị hấp dẫn bởi chương trình hướng dẫn được tổ chức cách cẩn thận và bởi bầu khí văn minh và phẩm chất của các trường này
Từ những người dạy giáo lý và những người giảng dạy của trường đã khai sáng cho đất nước Balan. Các cha có tài hùng biện như Karnkowisky, Stanislaw sokolowski đã thực hiện những cuộc đột nhập vào những nơi đang nắm giữ của Tin Lành.