(Đỗ Quang Chính, S.J.)
Nói đến lòng nhiệt thành của bổn đạo Việt Nam suốt từ khi truyền giảng Tin Mừng “chính thức” kể từ 1615 đến nay, là công việc lớn lao. Vì vậy, trong bài này chúng tôi chỉ xin nói một số sự việc giới hạn trong mấy chục năm đầu cuộc truyền giáo, tức vào khoảng 1615-1660; tuy thế cũng sẽ giúp ta thấy được, dù đạo Chúa còn mới mẻ đối với người Việt, nhưng ai đã tin rồi, thì sống đạo rất nhiệt thành, hy sinh, can đảm. Phải nói rằng đây là thời gian đặt nền móng vững chắc cho Giáo hội Việt Nam.
Ngày xưa Giáo hội Việt Nam quen dùng danh xưng bổn đạo hơn các danh xưng khác, như: con chiên, con chiên bổn đạo, giáo đồ, tín hữu, giáo hữu, đạo hữu, Kirisităng, Kirisităng bổn đạo, giáo dân, Kitô hữu… Thực ra muốn chỉ rõ lớp người không phải là linh mục, giáo sĩ, tu sĩ, có lẽ nên dùng từ giáo dân như ngày nay. Nhưng chúng tôi xin dùng danh từ bổn đạo là cách dùng phổ biến trong Giáo hội Việt Nam xưa, phổ biến hơn cả danh từ giáo hữu. Còn danh từ giáo dân, Kitô hữu xem ra mới được dùng từ trên nửa thế kỷ nay. Ở đây chúng tôi chỉ nói tới bổn đao (nay gọi là giáo dân), không nói tới linh mục, thầy giảng, nữ tu Việt Nam xưa.
1. Không ít người theo đao Đức Chúa Blời đất
Nói được chăng, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có tín ngưỡng, thậm chí là một dân tộc đậm tính tôn giáo. Nhờ đó, các hình thức, nghi lễ thuộc loại tín ngưỡng, tôn giáo, như Thành Hoàng, Bàn thờ Thiên, tế đàn Nam giao, Trang thờ và Tam giáo, đã từ bao nhiêu thế kỷ cắm rễ sâu vào xã hội Việt. Đến thể kỷ XVI và nhất là từ đầu thế kỷ XVII, khi một tôn giáo, thực tế là từ phương Tây, vào xã hội Con Rồng Cháu Tiên, cũng được một số người tận tình, nhiệt tâm, thành tín tiếp nhận. Tôn giáo này, gọi chung là đạo Thiên Chúa, hay nói đúng ra là đạo Công giáo, dù về giáo lý, hình thức tế tự, hàng giáo sĩ, khác hẳn với các tín ngưỡng, tôn giáo thời đó trên đất Việt, nhưng số người mộ đạo mới này cũng chẳng phải là hiếm hoi. Lạ đấy!
Đạo Công giáo “chính thức ” có mặt ở Đàng Trong kể từ ngày 18-1-1615, đến năm 1640 có khoảng 15.000 bổn đạo, theo tờ biểu của ba vị đại diện giáo đoàn Đàng Trong đệ lên Đức Thánh Cha Urbanô VIII[1]; đến năm 1665 con số bổn đạo được gần 50.000 sau một nửa thế kỷ truyền đạo. Còn ở Đàng Ngoài, đạo Công giáo “chính thức” có mặt kể từ ngày 19-3-1627, khi hai nhà truyền giáo Pedro Marques[2], người Bồ Đào Nha và Alexandre de Rhodes[3] (ngày nay quen gọi là Đắc Lộ từ năm 1941) người Avignon, đặt chân lên cửa Bạng, Thinh Hoa (Thanh Hoá). Tạm dừng chân ở cửa Bạng hai tuần lễ, nhưng hai giáo sĩ đã rửa tội được 32 người. Tháng 5-1630 hai giáo sĩ rời bỏ Đàng Ngoài, thì đã có 6.700 người tòng giáo (chỗ khác Đắc Lộ tổng cộng được 5.602 người) thuộc nhiều tầng lớp xã hội[4]. Trong thập niên 1631-1640, trung bình mỗi năm có trên 8.000 người được rửa tội theo sổ sách của Cardim[5] và Amaral[6] là những người truyền giáo thời đó tại kinh đô Thăng Long đã ghi nhận[7]; ví dụ: năm 1631: 5727 người, năm 1633: 9.797, năm 1635: 8.176, năm 1637: 9.707, năm 1640: 10.507.
Năm 1659 Đàng Ngoài có 340 nhà thờ, nhiều nhất là ở Sơn Nam xứ. Về tân giáo đoàn Đàng Ngoài năm 1663, cha Tissanier[8] ghi nhận như sau:
“Thường thường mỗi năm từ 7.000 đến 8.000 người được rửa tội, và người ta thấy qua sổ rửa tội của các nhà thờ, thì từ năm 1627, năm khai sinh cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài, cho đến năm 1663, đã có trên 350.000 lương dân được tái sinh trong nước thanh tẩy; các Giêsu hữu có sáu cư sở (residences), chẳng có Xứ nào trong vương quốc lại không dựng đền thờ Thiên Chúa chân thật, số đền thờ này lên tới 386[9].
Qua những sự kiện trên đây, người ta thấy được người Đàng Ngoài tin theo đạo Chúa nhiều hơn người Đàng Trong. Số bổn đạo Đàng Ngoài gia tăng mau chóng, vì xem ra đạo “mới” này thích hợp với người Việt Đàng Ngoài hơn. Nếu so sánh với các nước Trung Quôc, Ấn Độ, Sri Lanka, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, Indonesia cùng trong thế kỷ XVII, cũng thấy được người Đàng Ngoài thời ấy theo đạo Công giáo nhiều hơn. Trong bản báo cáo với Bề trên cả Dòng mình ngày 2-11-1647, cha João Cabral[10] viết: “Con nhận xét trong cõi phương Đông, chẳng có dân tộc nào có điều kiện thích hợp với Kitô giáo hơn dân tộc Đàng Ngoài. Đó là một dân tộc đơn sơ, ngoan hiền, không vương mắc những thói tật xấu xa, thường làm cho người ta khó thực hành các nhân đức.Kitô giáo”[11].
Không kể các lý do siêu nhiên, thì nguyên nhân tự nhiên do văn hoá, như khung cảnh, nếp sống, tín ngưỡng, phong tục xã hội…xem ra thuận lợi cho đạo Công giáo, một Công giáo thế kỷ XVII với những “cơ cấu đạo” dễ được dân Đàng Ngoài chấp nhận hơn Đàng Trong và các dân tộc láng giềng.
Chính cha João Cabral sau khi đi kinh lý giáo đoàn Đàng Ngoài, ngày 12-10-1647 đã báo cáo về Roma như sau[12]:
– Người dân Đàng Ngoài tòng giáo chỉ vì phần rỗi linh hồn; họ từ bỏ nếp sống cũ, đến nỗi như trước đây họ chưa theo tôn giáo nào;
– Đàng Ngoài không có giai cấp (castes) và không phải kiêng khem một số đồ ăn như tại Ấn Độ; họ không có những thói xấu như nhiều dân khác;
– Bổn đạo Đàng Ngoài kính trọng các cha khác thường; chẳng gì làm cho họ buồn tủi bằng khi các cha từ chối đồ lỡi (lễ) của họ;
– Bổn đạo Đàng Ngoài yêu thương nhau như anh em.
Trong bản báo cáo của cha Cardim được ấn hành năm 1646 tại Paris, còn ghi nhận thêm mấy lý do khác, làm cho dân Đàng Ngoài dễ theo đạo Công giáo[13]:
– Một người vừa “chịu đạo”, liền tỏ ra rất nhiệt thành, đi khắp các làng mạc, truyền bá đạo mới cho đồng bào, nhất là cho bà con thân thích;
– Các quan thường đối xử với dân cách kiêu căng, hống hách; nhưng sau khi theo đạo mới, lại tỏ ra nhân từ, đại lượng với dân;
– Khi dân tới cửa quan, phải phục lạy quan sát đất; còn đối với các cha, bổn đạo muốn lạy các cha cũng không cho;
– Đồng bào lương thấy anh chị em bổn đạo tổ chức an táng, giỗ chạp long trọng, thì cho là đạo mới này dạy con người phải rất hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.