Chia sẻ
Lòng nhiệt thành của bổn đạo Việt Nam
[1] Bản dịch tờ biểu sang La ngữ do chính chữ cha Alexandre de Rhodes, hiện lưu trữ tại Archivum Romanum Societatis Jesu, Jap – Sin. 68, tờ 47. Bạn đọc có thể coi bản dịch ra La ngữ của A.de Rhodes : Alexandre de RHODES, S.I., Cathechismus pro iis qui volunt suscipere Baptismum in octo dies divisus, Reédition de 1’ouvrage publié à Rome en 1651, Tinh – Việt, Sài Gòn, 1961, giữa trang XVI- XVII; tuy nhiên lần tái bản này, nhà xuất bản đã ghi nhận không đúng, khi viết là : Thư của giáo hữu xứ Nam gởi lên Đức Giáo Hoàng La mã xin cử Giám muc sane Viêt Nam.
[2] Pedro MARQUES (1577- 1657) sinh năm 1557 tại Mourão, Evora, Bồ Đào Nha (khác với cha Pedro Marques người Nhật (1613 – 1670?) cũng truyền giáo ở Đàng Trong); đi Đông Á 4-4-1600 khi đó chưa làm linh mục; ở Nhật từ 1609 tới 1614 bị chính quyền trục xuất về Macao; 1615-1616 ở Vịnh Lung (Udong), Campuchia; đầu năm 1618 đến cửa Hàn; 1626 về Áo Môn; 1627 tới cửa Bạng; 1630 bỏ Đàng Ngoài; 1631- 1635 ở đảo Hải Nam; qua đời tại Nhật 12-6-1657.
[3] Alexandre de RHODES (1593-1660), sinh quán tại Avignon là đất của Toà Thánh từ 1348-1791, nên Rhodes có quốc tịch Toà Thánh, dù là sống trong văn hoá Pháp; ông là nhà truyền giáo nổi tiếng ở Việt Nam thời đó.
[4] A.de RHODES, Divers voyages et missions, Paris, 1653, tr. 95.
[5] António – Francisco CARDIM (1596-1659) sinh khoảng 1596 tại Bồ Đào Nha; học thần học tại Goa, rồi được thụ phong linh mục tại đây; năm 1631 đến Đàng Ngoài cùng chuyến tàu với Gaspar d’Amaral; hơn năm sau về Macao làm viện trưởng Học Viện Macao từ 1632-1636; qua đời tại Macao 30-4-1659; cha mẹ A.F. Cardim có 10 người con thì hết 9 người đi tu Dòng.
[6] Gaspar d’AMARAL (1592-1646) sinh tại Curvaceira, Bồ Đào Nha; ruyền giáo ở Đàng Ngoài lần 1 : 1629-1630, lần 2 : 1631-1638; bị chết đắm tàu ở vịnh Bắc Bộ 26-2-1646 khi từ Macao đi Đàng Ngoài; vào năm 1632, Amaral có trình độ tiếng Việt và phương pháp ký âm tiếng Việt sang mẫu tự abc hơn A. de Rhodes những năm đó.
[7] A.-F.CARDIM et F.BARRETO, Relation de ce qui s’est passé depuis quelpues années.., Paris, 1646, tr. 76. – Gaspar d’ AMARAL, Annua do reino de Annam do anno 1632, trong Archivum Romanum Societatis Jesu, Jap,- Sin.85, tờ 125 mặt trước.
[8] Joseph TISSANIER (1618-1688) sinh 1616 tại Port-Sainte-Marie, Pháp; thụ phong linh mục trước 1650; 1654 rời Pháp đi Đông Á truyền giáo; đến Đàng Ngoài 13-4-1658; bị trục xuất khỏi xứ này 12-11-1663; qua đời tại Macao 24-12-1688.
[9] Joseph TISSANIER, Relation du voyage du p. Joseph Tissanier…depuis la France au royaume de Tunquin, Paris, 1663, trong F.de MONTEZON et É.ESTÈVE, Voyages et travaux des missonnaires de la Compagnie de Jesus, Paris, 1858, tr. 197-198.
[10] João CABRAL (1598 -1669) sinh tại Celorico da Beira, Bồ Đào Nha; đi truyền giáo từ 1624; đến Nepal, Sri Lanka, Goa, Malacca; 1647 kinh lý xứ truyền giáo Đàng Ngoài; qua đời 4-7-1669 tại Goa.
[11] F.de MONTEZON, Voyages et travaux des missionnaires de la Compagnie de Jesus, Paris, 1858, tr. 57.
[12] S.DE LACROIX, Histoire unverselle des missions catholiques, T.II, Paris, 1957, tr. 67-68.
[13] A.-F. CARDIM, Relation, sđd., tr. 76-77.
[14] NGUYỄN PHƯỚC NGUYÊN tức Sãi vương (1563-1635) sinh 1563, nối quyền cha là chúa Nguyễn Hoàng, cai trị Đàng Trong từ 1613 đến khi qua đời là năm 1635.
[15] TRỊNH TRÁNG tức Thanh đô vương (1575-1657) sinh 1575, nốì vị cha là Trịnh Tùng, cai trị Đàng Ngoài từ 1623 cho đến khi qua đời lúc 8 giờ tối 26-5-1657 tại Thăng Long.
[16] A. de RHODES, Histoire du royaume de Tunquin, Lyon, 1651, tr. 150.
[17] Có lẽ đây là sách kinh bằng chữ Nôm do cha F. de Pina soạn ở Hội An khoảng 1620-1625?
[18] A. de RHODES, Histoire du royaume de Tunquin, sđd, tr. 138-140.
[19] A. de RHODES, như trên, tr. 145-146.
[20] A. de RHODES, như trên, tr. 323-324.
[21] Thời đó Giáo hội chưa ban phép rước lễ hàng ngày.
[22] A. de RHODES, Divers voyages et missions, Paris, 1653, tr. 100-101.
[23] A. de RHODES, như trên, tr. 122.
[24] A. de RHODES, như trên, tr. 172.
[25] Có lẽ ngôi nhà thờ này cùng nhà hai giáo sĩ Marques và Đắc Lộ toạ lạc gần đến Bà Kiệu và cầu Thê Húc đền Ngọc Sơn bên bờ Hồ Hoàn Kiếm. Ngày 29-5-1941 hồi 5 giờ chiều, Hà Nội long trọng khánh thành bi đình Đắc Lộ do kiến trúc sư Joseph Lagisquet phác hoạ (người đã vẽ nhiều kiểu biệt thự ở Đà Lạt), xoay mặt về hướng Nam, để ghi nhận công trình hoàn thành chữ quốc ngữ và cho xuất bản 3 cuốn sách quốc ngữ đầu tiên (ấn hành tại Roma năm 1651). Khoảng năm 1957, chính bia đá A lịch sơn Đắc Lộ được cất vào viện bảo tàng Hà Nội, chỉ còn cái “đình” bốn mặt trống rỗng;’cuốí cùng, khoảng năm 1982, ngôi “đình” bị phá bỏ hoàn toàn, thay vào đó là đài chiến sĩ vô danh.
[26] A. de RHODES, Histoire du royaume de Tunquin, sđd, tr. 217. Cha Đắc Lộ ghi lại như thế, nhưng không rõ cha viết bằng thứ chữ nào? Theo chúng tôi nghĩ, cha chưa thể viết bằng chữ Quốc ngữ được, vì lúc ấy chữ Quốc ngữ abc chưa định hình. Vậy, viết bằng chữ Nôm thì đúng hơn, lý do bổn đạo nghe đọc thì hiểu ngay. Từ ghi nhận này, cho hay Đắc Lộ đã viết được chữ Nôm chăng?
[27] André PALMEIRO (1569-1635), người Bồ Đào Nha, đã giảng đạo ở Malabar- Goa từ 1618-1626; ở Macao từ 1626-1635; ở Đàng Ngoài mấy tháng năm 1631; qua đời tại Macao 4-4-1635.
[28] Gaspar d’Amaral, Annua do reino de Annam do anno de 1632, pera o Pe André Palmeiro da Compa de Jesu, Visitador das Provincias de Japam, e China, trong Archivum Romanum Societatis Jesu, Jap-Sin. 85, tờ 132 mặt sau : “de modo q m gentios lhe chamão, ley de yêu nhău, ley de se amar”.
[29] Bà Minh Đức Vương thái phi (1568-1649) được cha Fontes ghi nhận năm 1626 bằng tên Maria Orancaya (António de FONTES, Annua de Missão de Atiam, viết tại Hội An ngày 1-1-1626, trong Archivum Romanum Societatis Jesu, Jap-Sin.l2, tờ 74 mặt sau : “Trong số những người đã chịu phép Thánh tẩy có một nhân vật quan trọng nhất là bà Orancaya, hay là vợ bé (molher pequena) của Tiên Vương đã từ trần. Khi chịu phép rửa, bà mang tên thánh Maria”. Thực ra chúng tôi không biết đích danh của bà. Minh Đức Vương thái phi chỉ là tước vị được vua Gia Long sau này truy phong cho bà.
[30] Francisco de PINA (1585-1625) (theo báo Tri Tân, số 1, năm 1941, tr.3, Pina có tên Việt Nam là Trực), sinh 1585 tại Guarda, Bồ Đào Nha; đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1617 đến ngày 15-12-1625 chết đuối tại hải phận Hội An. Pina là tu sĩ Dòng Tên đầu tiên thông thạo tiếng Việt, soạn giáo lý bằng tiếng Việt (có lẽ là chữ Nôm) và cuốn ngữ pháp tiếng Việt. Pina là thầy dạy tiếng Việt cho cha Đắc Lộ tại Thành Chiêm năm 1625-1626.
[31] NGUYỄN PHƯỚC LAN (Thượng vương) (1601-1648) sinh 1601; cầm quyền năm 1635; qua đời 19-3-1648.
[32] NGUYỄN PHƯỚC KHÊ (Hoàng Khê) (1589-1646) sinh ngày 19-2- 1589, là con trai thứ hai của chúa Nguyễn Hoàng, nhưng là con độc nhất của bà Minh Đức với chúa Nguyễn Hoàng. Ngay khi Nguyễn Hoàng còn sống, ông đã được thăng chức Chưởng cơ; năm 1626 giữ chức Tổng trấn đời Nguyễn Phước Nguyên; đời chúa Nguyễn Phước Lan, ông là nhân vật số 2 ở Đàng Trong, chỉ sau chúa Nguyễn; qua đời 22-8-1646 (TÔN- THAT-HÂN, Généalogie des Nguyễn avant Gia- Long, bản dịch sang tiếng Pháp do Bùi Thanh Vân và Trần Đình Nghi, trong Bulletin des Amis du vieux Hué, n°3, Juill.-Sept. 1920, tr. 316).
[33] A.de RHODES, Divers voyages et missions, sđd, tr. 75-76, 122, 170- 172.
[34] về bà Minh Đức Vương thái phi:
– A.de RHODES, Divers voyages et missions, sđd, tr. 75-76, 122, 170- 172.
– Tập san Bulletin des Amis du vieux Hué, 1939, tr. 13, 62, 77.
– PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Minh Đức Vương thái phi, Sài Gòn, 1957.
– Đỗ QUANG CHÍNH, S.J. sống trong xã hội Con Rồng Cháu Tiên, Lưu hành nội bộ, Tp. Hồ Chí Minh, 1998, tr. 73-75, 84, 103-104, 107, 112.
[35] Metello SACCANO (1612-1662) người Ý, cùng với cha Baltasar Caldeira đến Đàng Trong tháng 2-1646 thay thế cha Đắc Lộ bị trục xuất từ 3-7-1645; Saccano đã học tiếng Việt với cha Đắc Lộ có mật tại Macao; Saccano phải rời bỏ Đàng Trong tháng 7-1648; tháng 2-1652 Saccano lại vào Đàng Trong; hơn hai năm sau về Macao, rồi lại đến Đàng Trong; qua đời ở Đàng Trong ngày 17-8-1662.
[36] Không rõ Ngọc Liên công chúa sinh và chết năm nào, chỉ biết là sinh cuối thế kỷ XVI (khoảng 1595?), qua đời sau năm 1674; công chúa là chị của ba công chúa khác : Ngọc Vạn kết hôn với vua Campuchia Chey Chettâ II, Ngọc Hoa (Khoa) vợ của một Nhật kiều tại Hội An tên là Sataro cũng gọi là Nguyễn Taro, Ngọc Đỉnh kết hôn với Tướng Nguyễn Cửu Kiều, về Ngọc Liên công chúa :
– A. de RHODES, Divers voyages et missions, sđd., Phần II, tr. 140, 187-189,241-242, 249.
– L.CADIÈRE, Au sụịet de l’ épouse de Sãi vương, trong Bulletin des Amis du vieux Hué, 1922, tr. 221-232.
– L. CADIÈRE, Une prinsesse chrétienne, cũng trong Bulletin des Amis du vieux Hué, 1939, tr. 49.
[37] A. de RHODES, Histoire du royaume de Tunquin, sđd, tr.164-165.
[38] A. de RHODES, như trên, ư. 249 : “ Et pour ne se mesprendre point aux iours des festes, & des Dimanches, ils ont trouué moyen de dresser vn Calendrier, où sont marquees toutes les festes, & les ieusnes de 1’année, que les Catechistes font imprimer en la Ville Royale, & distrbuer apres par tout le Royaume”.
[39] URBANÔ VIII, tức Maffeo Barberini, sinh quán Fiorentino, Ý, đắc cử Giáo Hoàng 6-8-1623, bất đầu sứ vụ 19-9-1623, qua đời 29-7-1644.
[40] Manuel FERREIRA, Noticias summarias das perseguicões da Missam da Cochinchina, Lisbõa, 1700, tr. 187-288.
– Archivum Romanum Societatis Jesu, Jap – Sin. 73, tờ 171.
– Philiphê BỈNH, Truyện n’c Anam Đàng Traõ, Cuyển nhị, bản viết tay, Lisboa, 1822, tr. 443,448,453.
– A. LAUNAY, Histoire de la mission de Cochinchine, T. Ill, Paris, 1925, tr. 506, 510, 515-516, 520.
[41] Bản phiên dịch sang La ngữ do chính chữ Đắc Lộ, hiện lưu trữ trong Archivum Romanum Societatis Jesu, Jap – Sin. 68, tờ 47. Một bản chép lại bản dịch này còn trong Kho Lưu trữ Bộ Phúc âm hoá các dân tộc : Miscellanee diverse, vol. 16, tờ 78.
[42] M. VITELIESCHI (1563-1645), người Ý, Bề trên Cả Dòng Tên từ 15-11-1615 cho đến khi qua đời 9-2-1645.
[43] Archivio della Congregazione per /’Evangelizzione Dei Popoli, Miscellanee diverse, vol. 16, tờ 208-210, gửi. chuyến tàu lần thứ hai. Bản phiên dịch sang Pháp ngữ và La ngữ:
– A.de RHODES, Histoire du royaume de Tunquin, sđd., tr. 259- 261.
– A. de RHODES, Tunchinensis Historiae libri duo, Liber secundus, Lyon, 1652, tr. 141-142.
Trong cuốn A. de RHODES, S.I., Cathechismus pro iis qui volunt suscipere Baptismum in octo dies divisus, Nhà xuất bân Tinh -Việt, Sài Gòn, 1961, giữa trang XVI và XVII, có chụp lại bức thư bằng chữ Hán của bổn đạo Đàng Ngoài gửi cha Bề trên Cả Dòng Tên năm 1630, nhưng ở cuối trang, thav vì phải ghi chú là Bức thư giâo hữu xứ Bấc nhờ cha Đắc Lô gửi cha Bề trẽn Cả Dòng Tên (1630). thì lại ghi lầm là Bức thư giáo hữu xứ Bấc nhờ cha Đắc Lô gửi lên Đức Giáo Hoàng (1630). Lettre des chrétiens du Tonkin au Pape par rintermédiaire du p. de Rhodes (1630).
[44] A. de RHODES, Tunchinensis Historiae libri duo, Liber secundus, Lyon, 1652, tr. 141-142.
A.de RHODES, Histoire du royaume de Tunquin, Lyon, 1651, tr. 259- 261.
[45] A.de RHODES, Histoire du royaume de Tunquin, sđd., ư. 306-308.