Tất cả các Kitô hữu và nhiều Lương dân tỏ lòng rất kính phục cha, ngay cả những người không quen biết cha cũng thế, dù chỉ thấy cha khi đi ngang qua. Nhiều người coi cha như một vị Giám chức vì cha nghiêm trang, đĩnh đạc mà khiêm tốn. Những người khác lại gọi cha là nouroni, nghĩa là sáng rực hay đầy ánh sáng; có những kẻ gọi cha là thánh, vì ngưỡng mộ cha có tư cách thánh.
Tôi không muốn nói đến đức vâng phục và khiêm tốn của cha, vì nếu có nói tôi chỉ nói được cách mơ hồ. Tuy nhiên, nếu ai muốn biết cảm nghĩ của tôi và của anh em chúng tôi về diều đó thì chúng tôi đều đồng tâm nhất trí về diều này, để nói rằng cha thật tuyệt vời. Ai đã biết cha nhờ sống với cha thì chẳng hồ nghi về điều ấy.
Lòng bác ái của cha đối với người nghèo, ngườibệnh, dù là người trong nhà hay người ngoài cũng được cha đối xử như nhau. Đối với kẻ này cha như là người cha, với kẻ khác cha như là người mẹ. Bằng chứng là, trong khi cha bệnh, cũng có một người phục vụ trong nhà cùng nằm bệnh với cha, đã được-cha săn sóc còn hơn là săn sóc cho chính cha, vì cha không chịu để cho anh ta thiếu thốn gì. Cha hạ mình làm những công việc thấp hèn nhất, những việc càng khó thì cha càng tin tưởng vào Chúa. Cha theo ý Chúa coi như ý mình, dù bất cứ sự gì xảy đến. Tính dịu dàng của cha trong khi chuyện trò và sự hiện diện của Chúa, là hai yếu tố làm nên đức tính trên.
Đức trong sạch của cha lại không thể nào không bằng các đức tính khác. Tôi không thấy người nào thận trọng hơn cha trong việc gìn giữ giác quan nhất là sự nhìn xem; đối với các cuộc thăm viếng của phụ nữ, cha tiếp đãi họ chỉ vì lòng bác ái.
Trong khi trò chuyện với người Hồi giáo, cha tìm cách cho họ biết bao nhiêu có thể về hai mầu nhiệm chính của đức Tin chúng ta, đó là Thiền Chúa ba ngôi và Ngôi Lời nhập thể. Trong các lời chào hỏi của người Hồi giáo, họ thường nói Kristus nigah darad. (Thiên Chúa gìn giữ anh chị), nhưng cha lại chào họ Hhazaret eissé hay Christus nigah darad (Đức Giêsu Kitô gìn giữ anh chị) để họ hiểu rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa .
Dù định viết vắn tắt, tôi cũng không được phép không nói gì về lòng sùng kính của cha đối với phép Thánh Thể, với Đức Thánh Trinh nữ, các Thiên thần và một số vị Thánh, cách riêng các Thánh trong Dòng chúng ta, nhất là các đấng tử đạo mà cha biết mặt và cha còn ghi nhớ như mới tinh. Khi nhớ tới các vị tử đạo trên dây, trong lòng cha pha lẫn một nỗi ưu phiền thánh thiện, vì đã không có được giờ phút giống như các ngài, đổ máu mình ra hay phải uống nước hoặc bị treo trên hố ở Nhật Bản như nhiều bạn bè của cha, mà cha còn mang di tích thánh của các ngài trên mình cách rất tôn kính và ước mong được kết thúc đời sống bằng cuộc tử đạo nếu Chúa ban ơn này cho cha mà cha hằng khẩn thiết cầu xin. Vì tôn kính các đấng tử đạo, cha còn lưu ý đến việc hằng ngày trong bữa ăn đọc truyện vài vị tử đạo, hoặc anh em trong Dòng qua đời nhờ tin tức do các anh em gửi đến.
Lòng sùng kính của cha đối với Đức Mẹ Thiên Chúa được nhận thấy mỗi khi cha nói với người tín hữu hay người Lương dân. Để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ Thiên Chúa, hằng ngày cha còn lần hạt ngoài các việc sùng kính khác.
Đàng khác, ngay từ khi còn nhỏ tuổi cha đã khấn hứa cách riêng giữ đức khiết tịnh, cho nên cha không thể chịu đựng được khi người đời nói chuyện với cha hay trước mặt cha mà nói tục. Những khi ấy cha cảnh cáo họ cách nhẹ nhàng dể họ đừng nói như thế nữa, và thường là có hiệu quả. Cha cũng hành xử như vậy đối với những ai vì bất cẩn hay vì lý do nào khác mà buông lời gièm pha hay làm hại danh giá người thân cận.
Tôi chắc chắn rằng những ai trong anh em chúng tôi đã được cha cùng sống và cùng làm việc lâu dài, có thể còn nói nhiều chi tiết đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường thuật này; đó lại chính là điểm cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu chốt của mọi thứ dệt nên đời cha. Chưa bao giờ người ta thấy một tu sĩ giống như cây gậy của ông già như thấy cha trong toàn cơn bệnh; cha nhẫn nhục, nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì cha sẵn sàng ở tư thế như người ta muốn, đến mức như cha còn có ý chí hơn cả cây gậy, chẳng tỏ ra một dấu hiệu nào là đau đớn, cũng chẳng tỏ ra khó chịu khi phải dùng thuốc hay đồ ăn người ta trao cho. về điều này chúng tôi phải ngưỡng mộ cha trong bữa ăn cuối cùng, khoảng ba hoặc 4 giờ trước khi cha trút linh hồn, vì cha tỏ ra vâng phục y tá của cha cách lạ lùng . Dù khi đó giác quan củacha bị suy nhược, song cha chẳng quên chút nào việc làm phép và tạ ơn, hơn nữa còn làm dấu Thánh giá theo thói quen của cha trên ly thuốc người ta trao cho cha uống.
Liền sau đó là cơn hấp hối nhẹ nhàng, rồi cha tắt thở.
Kiểm tra tương tự
Tại sao nước Mỹ có ít bậc hiển thánh và chân phước?
Có vị thánh nào gốc người Mỹ không, hay tất cả đều từ nơi …
Nghĩa trang Công giáo: Tuyến đầu chống lại nỗi sợ thế tục về cái chết
Ông Peter Nobes, người quản lý các nghĩa trang Công giáo thuộc Tổng giáo …