GIAI ĐOẠN 1615-1773
MỞ ĐƯỜNG TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG
VÀ XÂY DỰNG GIÁO HỘI VIỆT NAM
Chính việc giới thiệu Tin Mừng cho người Việt trong giai đoạn này là đóng góp lớn nhất của Dòng Tên cho Giáo Hội Việt Nam. Bởi các Giêsu hữu đã đặt nền tảng vững chắc cho việc khai sinh Giáo Hội Đàng Trong từ 1615 và Giáo Hội Đàng Ngoài từ 1627.
Để hiểu rõ hơn về hoạt động và sứ vụ truyền giảng Tin Mừng của Dòng Tên trong giai đoạn này, độc giả có thể đọc tác phẩm Dòng Tên trong xã hội Đại Việt, 1615-1773, (Bản thảo để xin phép xuất bản), Tp. HCM, 1998, với một thư mục rất “đồ sộ” của cha Đỗ Quang Chính, S.J.[4] Đây là một tài liệu sử rất quí, gồm 655 trang A5, một công trình nghiên cứu rất công phu, tỉ mỉ và chuyên sâu. Trong phần này, người viết dựa phần lớn vào tài liệu này. Dưới đây, xin được sơ lược về công cuộc truyền giảng Tin Mừng của các Giêsu hữu tại Đàng Trong và Đàng Ngoài trong giai đoạn này.
THOÁNG NHÌN VỀ CÔNG CUỘC TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG CHO XÃ HỘI ĐÀNG TRONG
“Dấu vết” Kitô giáo đã có ở Việt Nam vào thế kỷ XVI[5]. Nhưng cho đến ngày 18.01.1615, tại Đàng Trong, Vương quốc Chúa Nguyễn[6], ba Giêsu hữu đầu tiên đặt chân đến Cửa Hàn (Đà Nẵng) là cha Francesco Buzomi người Ý, cha Diologo Carvalho và tu huynh Antónius Dias, cả hai đều là người Bồ Đào Nha, có lẽ bấy giờ Tin Mừng mới “chính thức” được truyền giảng tại Việt Nam, dẫn tới việc thành lập những giáo đòan tồn tại và phát triển cho đến nay. Ngay dịp lễ Phục Sinh năm 1615, tại Cửa Hàn đã có một nhà nguyện và 10 người đã được nhận phép rửa. Trước năm 1615, đã có người công giáo Nhật kiều trốn chạy các cuộc bắt đạo ở Nhật đến sinh sống tại Hội An. Nên có lẽ lúc đầu mục đích chính của các Giêsu hữu là giúp họ về mặt đạo. Nhưng khi nhận thấy Đàng Trong là một cánh đồng truyền giáo rất phong phú, và khi tiếp xúc, các thừa sai thấy người Việt hiếu khách, cởi mở, rộng lượng, dễ đón nhận Tin Mừng, nên từ cuối năm 1615, các ngài đã chú ý hơn đến việc giới thiệu Tin Mừng cho người Việt.
Từ năm 1618, các Giêsu hữu đã truyền giáo đến tận Qui Nhơn, giáp ranh giới phía Nam của Đàng Trong thời đó.[7] Từ 1615 đến 1623, các Giêsu hữu đã thành lập được ba cư sở (residentia): Hội An (1615), Nước Mặn (1618)[8], Thanh Chiêm (Quảng Nam Dinh) (1623)[9]. Số người tin vào Tin Mừng ngày càng gia tăng. Vào năm 1618, tại khu Cửa Hàn – Thanh Chiêm – Hội An, số bổn đạo đã lên tới 300 người. Năm 1620, tại Hội An, có 82 người Việt và 27 người Nhật được rửa tội. Đặc biệt, tại Hội An, năm 1620, một sách giáo lý bằng tiếng Đàng Trong đã được soạn thảo. Năm 1625, tại Thanh Chiêm, có 306 người trở lại. Tờ biểu đệ trình lên Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII ngày 17.07.1640 cho biết số giáo hữu Đàng Trong là 15.000 người[10]. Tới năm 1663, số bổn đạo của Đàng Trong đã lên tới khoảng 50.000 người.
Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes, người Avignon) – người đã có nhiều đóng góp lớn cho công cuộc truyền giáo và cho xã hội Việt Nam, nhất là trong việc hình thành chữ Quốc Ngữ – đã đến và ở lại Đàng Trong một năm rưỡi (từ tháng 12.1624 đến tháng 07.1626) để học tiếng Việt và phong tục tập quán của người Việt là chính, nhằm chuẩn bị cho sứ vụ Đàng Ngoài. Sau đó, ngài trở về Áo Môn. Ngài là người có khiếu học tiếng Việt, nên chỉ sau sáu tháng học tiếng với cha Francisco de Pina[11] và thực hành tiếng với một em bé người Việt 13 tuổi, ngài đã có thể giải tội và giảng thuyết bằng tiếng bản xứ[12]. Tháng 3.1627, ngài cùng với cha Pedro Marques, người Bồ Đào Nha, được gởi đến giới thiệu Tin Mừng cho Đàng Ngoài, Vương quốc Chúa Trịnh. Trong hơn ba năm hoạt động truyền giáo ở Đàng Ngoài, hai cha đã rửa tội được cho 5.602 người. Tháng 5.1630, hai Giêsu hữu này vĩnh viễn bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài. Sau khi về lại Áo Môn, ngài làm giáo sư thần học trong vòng 10 năm (1630-1640).
Năm 1639, tất cả các Giêsu hữu đều bị Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan trục xuất khỏi Đàng Trong. Các bổn đạo phải tự lo cho nhau suốt từ Huế qua Thanh Chiêm, Hội An, Hà Lam tới Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên. Trước tình cảnh bi đát này, cha Đắc Lộ được sai đến Đàng Trong từ 1640-1645. Tình hình bấy giờ quá khó khăn, việc sống đạo và truyền đạo bị cấm cách, nên bốn lần ngài phải đi đi về về rất nguy hiểm giữa Đàng Trong và Áo Môn. Tuy gặp nhiều sóng gió, gian truân và thử thách, có lúc phải trốn chui trốn nhủi đây đó vì bị lùng bắt, có lúc phải bị tù đày và suýt rơi đầu, ngài vẫn kiên trì bám trụ, vẫn một lòng hăng say dấn thân truyền giáo. Chính kinh nghiệm ở Đàng Ngoài cho thấy tầm quan trọng của giáo dân trong việc truyền giảng Tin Mừng, nên ngài đã thành lập Hội Thầy Giảng để cùng cộng tác với ngài trong việc loan truyền đạo thánh. Các thầy giảng đóng một vai trỏ rất lớn trong việc củng cố giáo đoàn và hăng say hoạt động truyền giáo, nhất là trong những lúc vắng bóng các thừa sai[13]. Thầy giảng đầu tiên anh dũng đổ máu làm chứng cho Tin Mừng là Anrê Phú Yên[14], chịu tử đạo tại Thanh Chiêm ngày 26.07.1644, lúc mới 19 tuổi, trước sự chứng kiến của các bổn đạo và cha Đắc Lộ, người trước đó đã rửa tội cho Anrê. Đúng một năm sau, ngày 26.07.1645, hai thầy giảng khác là Inhaxiô và Vincentê cũng bị chém đầu.
Sau nhiều lần bị cấm đoán và bị đe doạ chém đầu, cuối cùng, ngày 03.07.1645, cha Đắc Lộ vĩnh viễn bị trục xuất khỏi Việt Nam, nơi ngài đã để lại những dấu ấn truyền giáo đậm nét tại Đàng Trong cũng như tại Đàng Ngoài. Quá lưu luyến và xúc động trước cảnh chia ly, sau này, trong cuốn Hành Trình Truyền Giáo, ngài đã viết: “Tôi bỏ Đàng Trong bằng thân xác, nhưng chắc chắn không rời bỏ bằng tâm hồn, đối với Đàng Ngoài cũng thế. Thật ra tâm hồn tôi hoàn toàn ở cả hai xứ”.
Thật vậy, sau này, khi về đến Rôma, cha Đắc Lộ cho xuất bản 5 cuốn sách về Việt Nam (1650-1651), đồng thời tích cực vận động Toà Thánh gởi các Giám Mục đến Việt Nam. Cha viết: “Vừa tới nơi [Rôma], tôi liền bắt đầu làm cho khắp thành phố lớn này biết tại sao tôi đã từ tận cùng thế giới trở về đây. Tôi đã thường tâu trình điều này lên Đức Thánh Cha và Người tỏ ra rất muốn giúp đỡ chúng tôi; ngày nào tôi cũng đi gặp các Đức Hồng Y để trình bày những giáo đoàn Kitô mới này đang ngửa tay xin các Ngài chỉ cho lối đi tới Thiên đàng”[15].
Trong thời gian ở Rôma (1649-1662), cha Đắc Lộ đã đôn đáo đi tìm các Giám Mục cho giáo đoàn Việt Nam tại Ý, Piémont và Thuỵ Sĩ. Nhưng bất thành, vì nhiều lý do khác nhau. Cuối cùng, Giáo Hội Pháp đã thuận giúp. Ngày 09.09.1659, Toà Thánh đã bổ nhiệm Giám Mục Pallu làm Đại diện Tông Toà tại Đàng Ngoài và Giám Mục Lambert làm Đại diện Tông Toà tại Đàng Trong.
Tiếp sau khi cha Đắc Lộ bị trục xuất, tuy tình hình ngày càng nghiêm trọng, nhưng Dòng Tên ở Áo Môn vẫn tiếp tục gởi các Giêsu hữu đến Đàng Trong. Cho đến năm 1658, đã có tất cả 38 Giêsu hữu thuộc 10 quốc tịch khác nhau được gởi đến mảnh đất truyền giáo phì nhiêu này. Cho tới năm 1663, có khoảng 50.000 Kitô hữu ở Đàng Trong. Các thừa sai Dòng Tên đã hoạt động từ sông Gianh đến Lâm Tuyền (Chợ Mới) ở Nha Trang, tới tận Phan Rí bấy giờ thuộc quyền vua Chăm. Từ 1615 đến 1773, năm Dòng Tên bị giải thể, có tất cả 77 Giêsu hữu nước ngoài và 7 Giêsu hữu Việt Nam hoạt động tại cánh đồng truyền giáo Đàng Trong.
Cha Đỗ Quang Chính nhận xét: “Từ năm 1615-1664, chỉ có anh em Giêsu hữu “chính thức” dấn thân vào xã hội cũng như Giáo hội Đàng Trong; nhưng sau đó, nhiều nhóm thừa sai khác nhau cùng đến Đàng Trong truyền giáo. Mục đích của tất cả các nhóm thừa sai ở Đàng Trong, đều nhắm đến việc truyền bá Tin Mừng Đức Kitô cho mọi người, …. Tuy nhiên, phương cách hành động có khi khác nhau, thậm chí mâu thuẫn. Do đó, từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 18, Giáo hội Đàng Trong phải chứng kiến cảnh chia rẽ, có lúc xung đột giữa các nhóm thừa sai, chưa kể biết bao khó khăn xảy đến từ bên ngoài Giáo hội non trẻ này.
Các Giêsu hữu là những người khai sinh Giáo hội Đàng Trong kể từ 1615, vẫn muốn tiếp tục cùng các nhóm thừa sai khác nhau, phát triển Giáo hội ở đây. Vì thế, dù khó khăn chồng chất khó khăn, anh em Giêsu hữu cũng không hề nản chí; nhất quyết chung tay xây đắp Giáo hội này, cho đến khi ‘nhắm mắt xuôi tay’, tức là năm 1773, khi Toà thánh giải thể Dòng Tên”[16].
THOÁNG NHÌN VỀ CÔNG CUỘC TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG CHO XÃ HỘI ĐÀNG NGOÀI
Để dọn đường cho việc giới thiệu Tin Mừng cho xã hội Đàng Ngoài, hai Giêsu hữu, cha Giuliani Baldinotti (người Ý) và tu huynh Giulio Piani (người Nhật), cả hai đều không biết tiếng Việt, từ Áo Môn, theo tàu buôn Bồ Đào Nha, được phái đi tìm hiểu về tình hình ở đó. Ngày 15.03.1626, họ đặt chân đến Kẻ Chợ, tức kinh đô Thăng Long, và ở lại đó cho đến ngày 11.08.1626.
Ngày 19.03.1627, lễ kính thánh Giuse, cha Đắc Lộ và cha Pedro Marques đặt chân đến Cửa Bạng (Thanh Hoá). Cả hai đều biết tiếng Việt, nhưng Đắc Lộ thông thạo hơn. Tin Mừng bắt đầu được chính thức giới thiệu cho người Đàng Ngoài dưới sự bảo trợ của thánh Giuse. Vì Đắc Lộ thành thạo tiếng Việt hơn, nên đóng vai trò chính trong việc giới thiệu Tin Mừng cho người Đàng Ngoài.
Vừa tới Cửa Bạng, dân chúng tò mò tụ tập đến xem tàu lạ và người lạ, rồi thắc mắc hỏi: Đoàn người này là thứ người nào vậy? từ đâu đến? Mang theo những thứ nào vậy? …. Cha Đắc Lộ thuật lại việc gặp gỡ đầu tiên với người Đàng Ngoài bằng một “bài giảng” bằng tiếng Việt rất tuyệt :
Nhà truyền giáo vừa trả lời cho họ, vừa là thông dịch viên cho đoàn thương gia. Cha nói rõ, đây là tàu Bồ Đào Nha mà khá nhiều nước phương Đông biết đến; bây giờ họ chở tới một viên ngọc quí, ai mua được nó sẽ trở nên giàu sang, hạnh phúc; giá lại rất hạ, kẻ nghèo hèn nhất cũng mua được, chỉ cần có thiện tâm. Dân chúng nô nức muốn nhìn cho được viên ngọc này. Nhưng cha phải nói ngay là, không thể nhìn được viên ngọc này bằng mắt thân xác, nhưng chỉ nhìn được bằng con mắt tinh thần, tức là khi biết phân biệt chân lý và lầm lạc. Thế rồi cha bắt đầu thao thao về bất tận về Đạo Đức Chúa Blời đất, nhưng nhấn mạnh tới khiá cạnh con người và vũ trụ được Đức Chúa Blời đất tạo thành; vì thế con người phải thờ Đức Chúa Blời đất. Cha nói nhiều về việc thờ Chúa Blời, bởi vì dân chúng vẫn có lòng tin vào Trời[17].
Kết quả là sau đó vài ngày, có hai người xin rửa tội. Trong hai tuần đợi lệnh Chúa Trịnh (Trịnh Tráng) cho phép tàu lên Kẻ Chợ, hai cha rửa tội được cho 32 người, trong số đó có một thầy đồ và một pháp sư. Sau khi được gặp Chúa Trịnh, bấy giờ đang tiến quân đi đánh Đàng Trong bằng đường thuỷ với một đội quân và thuyền chiến rất hùng hậu, những thương gia Bồ Đào Nha và hai thừa sai Dòng Tên được đến ở tại An Vực để chờ Chúa Trịnh đánh trận trở về. Tại đó, hai cha cho dựng một nhà thờ và cất một ngôi nhà dành cho những người bị bệnh phong[18]. Ngày 03.05.1627, nhà thờ được khánh thành. Đây là nhà thờ đầu tiên ở Đàng Ngoài. Không thể ngồi yên chờ gặp Chúa Trịnh đang thân chinh đi đánh Đàng Trong trở về, trong hơn hai tháng, từ An Vực, hai cha mở rộng hoạt động truyền giáo đến Vân No và các làng xã chung quanh, rửa tội được cho 200 người. Điều này làm cho các nhà sư bực bội và chống đối.
Tuy thất trận trở về, nhưng Chúa Trịnh vẫn ân cần đón tiếp các ngài và cho về Thăng Long, cấp đất và vật liệu để dựng một căn nhà khang trang. Một phần gian nhà này được dùng làm nhà thờ. Có rất nhiều người đến xin học đạo, nên có những lúc cha Đắc Lộ phải dạy sáu lần một ngày và dành hai ngày trong một tuần để rửa tội cho các dự tòng. Đây cũng là nơi có những người đến để phản đối và tranh luận với các ngài. Cha Đắc Lộ ra điều kiện là những ai muốn đặt câu hỏi hay muốn tranh luận, thì buộc phải nghe giảng trong tám ngày liền mới được.
Cha Đắc Lộ hiểu rõ về văn hoá của người Việt, nên “Khi thuyết giảng, Rhodes [Đắc Lộ] cố gắng tránh lối trình bày tiêu cực, không chê bai Tam giáo, giảng giải thế nào để ngay từ đầu, nhờ lý luận tự nhiên, hợp với văn hoá VN, người nghe hiểu được dễ dàng. Vì thế, bước đầu giảng về việc đấng Tạo hoá tác thành muôn vật, đặc biệt con người, nên con người phải có lòng hiếu thảo tôn thờ đấng Tạo hoá …. Từ đó, dần dần mới đi vào các mầu nhiệm trong đạo”[19].
Trong số những người được rửa tội, có một số khuôn mặt thế giá và trí thức, như người trong phủ Chúa là mẹ của Chúa Trịnh, Catarina (con gái của bà), 12 nhà sư ở “Cầu giền”, 3 nhà sư (Đức, Tri, Nhuận) sau này trở thành ba thành viên rất nhiệt thành và tích cực trong Hội Thầy Giảng, một ông nghè 70 tuổi cùng bà vợ, ông Tiến sĩ Gioakim trên 70 tuổi, hai ông Hương cống (Cử nhân) Giuong và Phêrô. Những người này sau đó đã góp phần tích cực vào công cuộc truyền giáo.
Công cuộc truyền giảng Tin Mừng đang trên đà phát triển thành công, thì tai hoạ đột ngột xảy đến. Nhiều người chống đối quyết liệt, nhất là các bà vợ lẽ bị những ông chồng mới theo đạo bỏ rơi, các cung phi, thái giám lo sợ bị thải hồi nếu vua chúa theo đạo mới, các thầy pháp vu cáo các cha phù phép, dùng dầu và hơi thở để làm bùa mê, v.v. Tất cả kêu lên với Chúa Trịnh. Chúa Trịnh thay đổi thái độ, ra lệnh cấm các cha không được rao truyền đạo mới. Nếu bất tuân sẽ bị chém đầu.
Thêm vào đó, hai cha còn bị vu cáo thêm về tội làm chính trị. Các ngài bị vu cáo là đã cấu kết với nhà Mạc ở Cao Bằng và nhà Nguyễn ở Đàng Trong để khởi binh tiến đánh nhà Trịnh, lúc đó các cha sẽ cùng với bổn đạo phóng hoả đốt Vương phủ. Cuối cùng, ngày 25.05.1628, Chúa Trịnh ra lệnh quản thúc các ngài tại gia, không cho các bổn đạo đến gặp.
Dù bị hiểu lầm, nghi kỵ, vu khống, chống đối, đe doạ và bị quản thúc, hai cha vẫn vẫn khéo léo và kín đáo gởi thư thăm hỏi, an ủi, động viên tinh thần các bổn đạo và gởi bài giảng cho các bổn đạo tụ tập tại tư gia để cầu nguyện. Trong bốn tháng bị quản thúc, đêm đến, khi lính gác đã ngủ say, một mình cha Đắc Lộ lẻn ra ngoài đi thăm bổn đạo.
Sau đó, Chúa Trịnh quyết định đưa hai nhà truyền giáo đến Bố Chính để viên quan ở đó tống hai ngài vào Đàng Trong. Cuối tháng 3 năm 1629, một chiến thuyền nhỏ do một viên quan chỉ huy cùng với 36 lính chèo được lệnh chở hai cha đi Bố Chính. Trong cuộc hành trình, cha Đắc Lộ đã tài tình giảng đạo cho họ. Cuối cùng, viên chỉ huy cùng với 24 người lính xin được rửa tội trước khi họ về lại kinh đô.
Hai cha chỉ ở Bố Chính ít ngày, sau đó trốn đến Hà Tĩnh (Vinh) để khỏi bị quan cai Bố Chính đẩy vào Đàng Trong. Các ngài được yên ổn một thời gian ở Nghệ An, nhưng sau đó lại bị đe doạ, nên phải ẩn trú trên một chiếc ghe nay đây mai đó. Lý do là vì thầy giảng Inhaxiô Nhuận, theo hai cha từ kinh đô đến, đã làm ca vè chê bai những mê tín dị đoan của dân địa phương. May mắn thay, ngày 27.10.1629, đang lúc ở Cửa Rum, các ngài gặp được tàu buôn Bồ Đào Nha tới, trên tàu có hai Giêsu hữu là Gaspar d’Amaral và Paulo Saïto. Thế là cả bốn Giêsu hữu theo tàu trở về lại kinh đô. Nghe tin tàu buôn Bồ Đào Nha đến, Chúa Trịnh rất hài lòng; các bổn đạo cũng vô cùng phấn khởi vì hay tin các cha chưa bị trục xuất. Tới kinh đô, hai nhà truyền giáo mới được tự do đi lại, còn hai vị cũ thì phải âm thầm làm việc mục vụ, dạy giáo lý, rửa tội, giải tội và dâng lễ.
Cuối cùng, khoảng năm sáu ngày trước khi tàu buôn Bồ Đào Nha nhổ neo trở về Áo Môn, Chúa Trịnh ra lệnh cho bốn Giêsu hữu phải lên tàu về theo. Hay tin này, các bổn đạo, lúc này đã lên tới con số 5.602 người, vô cùng buồn bã, họ kéo tới nhà các cha khóc lóc từ biệt và xưng tội, bởi họ nghĩ đây là cơ hội cuối cùng. Các cha phải thức hầu như suốt đêm để giải tội cho họ.
Mục tử buộc phải rời bỏ đoàn chiên. Ai sẽ đứng ra chăm sóc đời sống đức tin cho họ? Ai sẽ là người tiếp tục công cuộc truyền giảng Tin Mừng cho lương dân đây? Một vấn đề cấp thời cần phải giải quyết. Cuối cùng phải đưa ra một giải pháp tạm thời: kết hợp các thầy giảng lại thành một hội có ‘lời khấn tu trì’. Mục đích là để để các thầy chăm lo phục vụ giáo đoàn còn non trẻ này cho đến khi các Giêsu hữu sẽ trở lại, rồi sau đó sẽ tính. Trong thực tế, lúc đó hội mới chỉ có ba thầy sư mới trở lại năm 1627 là Phanxicô Đức, Anrê Tri và Inhaxiô Nhuận.
Ngày 27.04.1630, trong thánh lễ cuối cùng cho bổn đạo ở nhà thờ, sau khi rước lễ, lần lượt ba thầy đặt tay trên sách Phúc Âm đọc lời tuyên hứa:
– Không lập gia đình cho tới khi có các cha Dòng Tên đến, để có thể rảnh rang giúp đỡ các bổn đạo;
– Tiền của, đồ vật thuộc tập thể các thầy;
– Vâng phục một thầy do các cha chỉ định làm bề trên, cho đến khi có các Giêsu hữu đến lại. (Thầy Phanxicô Đức bấy giờ được các cha đặt làm bề trên).
Đầu tháng 5.1630, tàu nhổ neo chở hai Giêsu hữu rời Đàng Ngoài trong tiếng khóc thương tiếc của các các bổn đạo.
Mối bận tâm về giáo đoàn, đông đảo nhưng còn non trẻ bị bỏ rơi, thúc đẩy các Giêsu hữu ở Áo Môn khẩn cấp tìm mọi cách gởi các thừa sai trở lại Đàng Ngoài. Mười tháng sau, tháng 3.1631, bốn Giêsu hữu đã đến Đàng Ngoài để tiếp tục công cuộc truyền giảng Tin Mừng đang bị dang dở. Đó là cha Palmeiro, Gaspar d’Amaral, cha António de Fontes và cha António-Francisco Cardim.
Khi tới nơi, các Giêsu hữu rất ngạc nhiên vì thấy, trong thời gian các thừa sai vắng bóng, giáo đoàn vẫn vững mạnh và phát triển ngoài sức tưởng tượng. Trong vòng 10 tháng, các thầy giảng nhiệt thành dấn thân truyền giáo không mỏi mệt, họ đã đi khắp nơi dạy giáo lý và rửa tội cho 3.300 người, cho dựng thêm 20 nhà thờ[20]. Các bổn đạo nhiệt tâm sống đạo, can trường làm chứng cho Tin Mừng, đoàn kết yêu thương nhau như anh chị em, hiền lành và hoà nhã với mọi người đến nỗi, theo cha Gaspar d’Amaral kể lại, người lương gọi họ là những kẻ theo “đạu yêu nhau”[21].
Cha Gaspar d’Amaral, bề trên giáo đoàn từ 1631-1638, tiếp nối đường hướng và sáng kiến truyền giáo của cha Đắc Lộ, đồng thời ngài đã hoàn chỉnh Hội Thầy Giảng mà cha Đắc Lộ đã khởi đầu. Ngài cũng là người rất giỏi tiếng Việt. Năm 1638, cha phải rời Đàng Ngoài sau 7 năm phục vụ. Thật đáng tiếc là năm 1646, khi trở lai Đàng Ngoài lần thứ ba, ngài đã chết do bị đắm tàu.
Tiếp sau đó, nhiều Giêsu hữu đã được gởi đến truyền giảng Tin Mừng ở Đàng Ngoài. Năm 1632, hai Giêsu hữu người Ý là Girolamo Majorica và Bernadino Reggio đến Thăng Long. Năm sau, Majorica đến Kẻ Rum (Vinh). Tại đây, nhờ thông thạo tiếng Việt và chữ Nôm, sau năm tháng, ngài đã rửa tội được cho 2.575. Đến năm 1634, Kẻ Rum đã có 4.183 bổn đạo. Năm 1638, một ngôi nhà thờ đẹp đã được xây dựng tại đó. Trong những năm kế tiếp, gặp phải biết bao chống đối và khó khăn, các Giêsu hữu khác vẫn tiếp tục được gởi đến và hoạt động truyền giáo hầu như khắp Đàng Ngoài. Tới năm 1663, giáo đoàn Đàng Ngoài đã có hơn 300.000 bổn đạo và hơn 300 nhà thờ[22]. Tính tổng cộng, từ năm 1627-1773, có tất cả 95 Giêsu hữu ngoại quốc đến hoạt động truyền giáo ở Đàng Ngoài, cộng thêm với 26 Giêsu hữu Việt Nam.
NHỮNG ĐÓNG GÓP KHÁC
Như đã nói, đóng góp lớn nhất của Dòng Tên cho Giáo Hội Việt Nam trong giai đoạn 1615-1773 chính là việc truyền giáo. Ngoài ra, các Các Giêsu hữu còn nỗ lực để đưa Tin Mừng ăn sâu vào đời sống và văn hoá Việt. Đó chính là cố gắng đưa đạo thích nghi, hoà mình vào xã hội Việt Nam. Đây chưa phải hội nhập văn hoá theo cách hiểu và quan niệm ngày nay.
Ngay từ khi Tin Mừng được chính thức giới thiệu ở Đàng Trong năm 1615 và Đàng Ngoài năm 1627, có nhiều người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau đã tin và chịu phép rửa. Nhưng cũng có nhiều người khác không tin và chống đối, bởi đạo Công Giáo làm thay đổi và đảo lộn đời sống của dân chúng về nhiều mặt. Hậu quả là các bổn đạo thường xuyên phải chịu khổ cực, vì bị vua quan và dân chúng đe doạ, bách hại, bỏ tủ, một số phải chịu tử hình; các thừa sai bị săn đuổi, ngăm đe, tù tội và bị trục xuất. Lý do chính yếu là dân Việt, từ vua quan đến tầng lớp cùng đinh đều chịu ảnh hưởng nặng nề và sâu xa của Tam Giáo. Tam Giáo đã ăn sâu vào đời sống và tâm thức người Việt, chẳng những là về mặt tín ngưỡng, mà còn cả về mặt chính trị, văn học, nghệ thuật, phong tục, tập quán, v.v.
Phải làm gì để đạo Chúa mau chóng hoà nhập vào xã hội Việt Nam? Phải trình bày giáo lý công giáo như thế nào? Phải vận dụng ngôn từ như thế nào cho thích hợp với ngôn ngữ, văn hoá, phong tục của người Việt mà vẫn không làm sai lệch hay biến chất giáo lý của “đạo mới”? Ngoài ra, cần phải thích nghi cách cử hành các bí tích, thích nghi nếp sống đạo với các phong tục của người Việt như thế nào?
Vậy các thừa sai Dòng Tên ở Việt Nam thời ấy đã theo cách thức và phương pháp nào để giới thiệu Tin Mừng với xã hội Việt Nam ?