Lòng nhiệt thành của bổn đạo Việt Nam

Tin Chúa, sùng đạo, nhiệt thành với sinh hoạt tôn giáo đã vậy, bổn đạo Việt Nam xưa còn đứng ra lãnh trách nhiệm liên lạc trực tiếp với Đức thánh cha qua thư từ, không thụ động, không “khoán trắng” cho các thừa sai người nước ngoài những gì họ có thể làm được.

Bằng chứng là, ngày 15-7-1640 bổn đạo Đàng Trong đã dâng một tờ biểu lên Đức thánh cha Urbanô VIII (37), nội dung như sau: Từ khi các thầy Dòng Đức Chúa Giêsu đến truyền giáo trong xứ này đã 26 năm số bổn đạo hiện nay là 15.000, nhưng chưa ai lãnh nhận bí tích Thêm sức. Vậy, cúi xin Đức thánh cha ban phép cho thầy nào trong số các thầy ở đây được làm phép thêm sức cho bổn đạo, để họ trở thành chiến sĩ Chúa Kitô trọn vẹn hơn, hầu trung thành chiến đấu trong cuộc chiến Đức tin. Những dòng đầu tiên tờ biểu ghi rõ ràng: “Petrus, Andreas, Joannes et reliqui Cocincinenses Christiani ad Sanctitatis Vestrae Pedes prostramur venerabundi” (Phêrô, Anrê, Giuong và các bổn đạo Đàng Trong kính cẩn sấp mình dưới chân Đức thánh cha…) Cuối thư đề rõ là: “E Cocincinae regno et civitate Caciam Idibus Julli anni 1640” (tại Thành Chiêm – Kẻ Chàm – vương quốc Đàng Trong, ngày 15-7-1640). Ba vị đại diện bổn đạo trên đây chỉ được ghi bằng tên thánh, nhưng có thể đó là ông Phêrô Ki, đậu “sinh đồ”, đã làm quan dưới quyền ông Hoàng Nguyễn Phước Khê, đứng đầu giáo đoàn ở kinh đô, tử đạo 27-1-1665 tại Huế; Anrê Sơn, người đã bị tống giam trong ngục vì đức tin tại Thành Chiêm cùng với thầy Anrê tháng 7-1644, nhưng được tha vì đã 73 tuổi; Giuong Cầy Trâm, tức Giuong Ketlam hoặc Giuong Vưang, là thầy dạy học, viết sách về Chúa và các thánh, đặc biệt cuốn Sách ngắm sự Đức Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày ở trên rừng, tử đạo tại Thành Chiêm ngày 11-5-1663, lúc 73 tuổi” (38). Theo chúng tôi nghĩ sáng kiến tờ biểu này là do cha Đắc Lộ, nhưng cha không đứng ra thay mặt giáo đoàn Đàng Trong viết, mà muốn anh em bổn đạo trực tiếp bày tỏ bằng giấy trắng mực đen. Sự thường tài liệu này được viết bằng chữ Hán, không phải chữ Nôm, càng không phải chữ Quốc ngữ, rồi được Đắc Lộ phiên dịch sang La ngữ như chúng ta còn nhận ra nét chữ của cha trong tài liệu trên. Sau đó cả hai bản đều được gửi về Roma, nhưng chúng tôi không có bản chữ Hán, chỉ có bản La ngữ, nên đã dựa theo đó mà trình bày (39).

Một tài liệu khác chứng tỏ vào mấy năm đầu truyền giáo, bổn đạo Đàng Ngoài cũng liên lạc thư từ trực tiếp với Đức thánh cha Urbanô VIII và cha Bề trên Cả Dòng Tên Mutio Vitelleschi (40), nội dung chính là xin các ngài giúp đỡ cách nào để nhiều người trong nước được nhận biết thờ phượng Thiên Chúa. Ở đây chúng tôi xin ghi lại theo tờ biểu bằng chữ Hán gồm 205 chữ trong 14 cột, viết trên giấy bản phổ thông, đệ lên Đức thánh cha Urbanô VIII năm 1630 (viết khoảng tháng 4 đầu tháng 5-1630) (41), do dịch giả Lê Kim Ngọc Tuyết phiên dịch sang tiếng Việt như sau:

“Thần và các bổn đạo nước An-nam, bái tạ Thiên địa Thân Chủ, mà viết thư này kính cẩn tấu lên đấng thay Chúa Giêsu chí thánh phụng sự.

“Thiên Chúa đã phái các Tôn sư giáo hóa muôn nước, duy nước An-nam hẻo lánh, từ xưa đến nay chưa được nghe chính đạo, nay may mắn thấy hai vị thầy Hoa Lang từ phương Tây không ngại sóng gió, nguy hiểm mà đến thẳng nước tôi, thừa lệnh Thiên Chúa giảng đạo, khuyên người, nên nước tôi hân hoan mộ mến chịu theo đạo được hơn năm ngàn, số còn lại muốn học càng nhiều. Nhưng vua thần nứơc tôi còn chưa thông hiểu, nên hết lời phỉ báng mà nói rằng, lúc đầu chưa có, nay từ đâu mà được. Duy độc nhất một mình lòng bổn đạo không nghi ngờ và hai ý, một mực thành kính, nên viết thư này tấu lên Chí thánh.

“Xin lòng chân tình đại từ bi của ngài cứu nước nhỏ bé chúng tôi, dùng kế gì khiến người giàu sang phú quý cũng như kẻ nghèo hèn bần tiện được đạo thánh, bỏ hết các nẻo đường khác để thoát cảnh trầm luân mà được hưởng phúc đức, thì sự ban cho có dư vậy.

“Thần và các bổn đạo cúi đầu, dập đầu kính cẩn tấu lên.

“Thư này, từ Thiên Chúa giáng sinh đến nay một ngàn sáu trăm ba mươi năm”.

Tài liệu không ghi rõ tên người đứng ra làm tờ biểu, nhưng chúng tôi chắc chắn là của bổn đạo Đàng Ngoài soạn thảo gửi lên Đức thánh cha vào năm 1630 nhờ cha Đắc Lộ khi về Macao chuyển đi. Chính cha Đắc Lộ đã phiên dịch sang La ngữ chuyển về Roma, rồi cho in năm 1652, còn cha Albi dịch sang Pháp ngữ in năm 1651 (42). Tờ biểu được soạn thảo vắn tắt, nhưng rất tha thiết thành khẩn theo cách diễn tả của bổn đạo đang lâm cảnh bơ vơ, vì vào đầu tháng 5-1630, tất cả 4 nhà truyền giáo đều phải ra khỏi Đàng Ngoài về Macao; đó là các linh mục: Pedro Marques, Alexandre de Rhodes, Gaspar d’Amaral và Paulo Saito.

Lòng nhiệt thành của bổn đạo Việt Nam mấy chục năm đầu truyền giáo, không phải chỉ ở chỗ mộ mến đạo, tin đạo, theo đạo, giữ đạo, sùng đạo, truyền đạo, nhưng còn dám can đảm “từ bỏ thế gian” và những quyến rũ thường tình của danh vọng, chức quyền, giàu sang, để hiến dâng cả cuộc đời phụng sự Chúa và phục vụ con người trong Tu hội Thầy giảng và Dòng Mến Thánh Giá. Tu hội được thành lập tại Đàng Ngoài ngày 17-4-1630 với ba con người tân tòng là Phanxicô Đức, Anrê Tri, Inhã Nhuận và tại Hội An, Đàng Trong ngày 31-7-1643 với 10 thầy giảng, trong số này có thầy Inhã, Anrê Phú Yên và Vinh Sơn. Về phía nữ, ngay vào khoảng 1640-1646 cùng có ba cô Monica, Nympha và Vitta sống chung với nhau một nhà khấn hứa trọn đời khiết trinh (43); có thể nói được đó là “tiền thân” của Dòng Mến Thánh Giá, mà sau này khi Đức cha Lambert đến Đàng Ngoài đã chính thức sáng lập vào ngày 19-2-1670 với hai nữ tu đầu tiên là Phaola và Inê, rồi khi ngài tới An Chỉ, Đàng Trong cuối năm 1671 cũng đã sáng lập Dòng Mến Thánh Giá tại nhà bà Luxia Kỳ, cùng một luật Dòng như Mến Thánh Giá Đàng Ngoài. Đến cỡ đó mà không được coi là nhiệt thành hay sao?

Chẳng những thế, ngay từ đầu đã có những bổn đạo như ông Phanxicô dù mới theo đạo được hai năm, nhưng can đảm thi hành đức ái triệt để “chôn xác kẻ chết”, vác xác đi chôn những người chết không nhà cửa, mà ông lại là người khiêng kiệu cho một quan lớn. Viên quan cho rằng nếu Phanxicô cứ vác xác người chết mà còn khiêng kiệu, thì làm nhơ bẩn cho quan, nên ra lệnh cấm ông chôn xác chết. Không tuân lệnh, nên Phanxicô bị quan đánh đòn, tống giam trong ngục, sau cùng quan tìm cách chém đầu Phanxicô. Đó là vào thời điểm 1630!

Sau khi thầy giảng Anrê Phú Yên chết vì đức tin tại Thành Chiêm ngày 26-7-1644 (được tôn vinh Chân phước ngày 3-5-2000), Trấn thủ Quảng Nam dinh phái viên quan xuống Phủ Quy Nhơn, truyền lệnh cho các bổn đạo phải ra thú nhận đã theo đạo Hoa Lang và phải từ bỏ đạo này, không tuân lệnh sẽ bị phạt. Thế mà không đầy một ngày, 700 bổn đạo kéo đến khai tên tuổi, tuyên xưng đức tin. Quá nhiều, viên quan chỉ chọn có 36 người trói lại giải về Thành Chiêm nộp cho Trấn thủ. Vì những lời đe dọa của quan, làm cho một ông già sợ chết, sợ mất của nên đã chối đạo; còn lại 35 người kia kiên trì trong Đức tin nên bị tống ngục. Đựơc tin, cha Đắc Lộ ban đêm lẻn vào tù thăm họ, sau khi bổn đạo đã khéo léo liên lạc được với lính canh giữ tù. Gặp nhau cha con thật mừng rỡ, “ở trong tù mà như trên Thiên Đàng”, mọi người đều quỳ gối tạ ơn Chúa, rồi tất cả đều xưng tội với cha, dự Thánh lễ, rước Mình Chúa. Trước khi trời sáng, Đắc Lộ thoát ra ngoài. Sau cùng, quan tha cho 29 người về nhà, chỉ giữ lại 6 người, đóng gông, đánh đòn nơi công cộng trong Thành Chiêm (Cacham, KeCham), rồi  cũng tha về. Như thế mà không gọi là nhiệt thành, là anh hùng đức tin sao được?

Lướt qua mấy bằng chứng trên đây, đủ cho thấy bổn đạo Việt Nam ngay từ thời kỳ đầu truyền giáo, đã rất vững vàng trong Đức tin.

Rõ ràng là nhờ các nhà truyền giáo nước ngoài đã hy sinh, bỏ quê cha đất tổ, vượt bao khó khăn, nguy hiểm, dám từ bỏ cả mạng sống, để nhắm một mục đích cao cả, vô vị lợi, là giới thiệu Tin Mừng với xã hội và con người Việt Nam. Nhưng Tin Mừng được lan rộng nhanh chóng và dần dần ăn rễ sâu trên mảnh đất này còn tuỳ thuộc vào những đóng góp lớn lao hoặc âm thầm của ngàn vạn bổn đạo. Thử hỏi, nếu bổn đạo không nhiệt tình truyền bá Tin Mừng, nếu không có các thầy giảng lăn xả vào việc bảo vệ và phát triển Tin Mừng đã được các nhà thừa sai gieo trồng, không có các nữ tu Mến Thánh Giá lặng lẽ qua các thôn xóm làm việc từ thiện phước đức, thì liệu có được một Giáo hội Việt Nam như ngày nay không?

Kiểm tra tương tự

Giới thiệu sách mới: VÂNG PHỤC TRONG ĐỜI TU – MỘT ĐÓNG GÓP CỦA LINH ĐẠO I-NHÃ

Sự vâng phục là một trong ba lời khấn mà các tu sĩ phải tuân …

Sách “Ý NGHĨA VÀ LỊCH SỬ CỦA HÀNH HƯƠNG”

Lời giới thiệu của Lm. Giuse Cao Gia An, SJ, Tiến sĩ chú giải Kinh …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *