Lm. Hoành Sơn, S.J.
Dâng thánh lễ, đó là niệm tưởng cái chết cứu chuộc của Thầy. Thánh Piô, quen gọi Cha Piô, suốt 50 năm dài đã sống đúng ý nghĩa ấy của thánh lễ, khi mà khổ nghiệm Năm dấu thánh của cha buộc liền với Thánh Thể và bàn thờ.
Trong tạp chí Revue de l’Histoire des religions (Tạp chí Lịch sử các tôn giáo)[1] số 221-3 năm 2004, giáo sư Silvia Mancini thuộc đại học Lausanne đã dành cả một bài nghiên cứu về hiện tượng Padre Pio[2], “hiện tượng gây sôi nổi lớn hiện nay bên Ý” từ “một trong những nhân vật dị thường nhất của thế kỷ chúng ta”.
Những giải thích tự nhiên của bà giáo sư bằng siêu tâm lý học (métapsychologie) và tác động huyền thoại-nghi thức được tăng cường bởi lòng sùng tín cuồng nhiệt của dân chúng, giải thích ấy tuy làm tôi không đủ thỏa mãn, nhưng lại gợi ý cho tôi đi tìm một giải thích bổ túc, bằng sự “nhái dạng” (mimêsis) Đức Giêsu ở tư thế hi sinh sẵn có từ sâu trong vô thức của thánh Piô. Thêm vào đấy, từ huyền khổ nghiệm Cha Piô đi ngược về thập giá Thầy chí thánh, tôi có thêm ánh sáng về thập giá này như một nhái dạng loài người trong tư thế đáng tội của họ.
Vậy hãy bắt đầu bằng lược tả khổ nghiệm Cha Piô, và ở đây, tôi dựa vào chính bài viết của Silvia Mancini, nghĩ rằng những gì bà biết về thánh Piô cũng là những gì công chúng đều biết, khỏi còn là vấn đề tranh cãi của khoa học nữa.
Khổ nghiệm Cha Piô dưới ngòi bút Silvia Mancini
Silvia Mancini, trong số báo RHR nói trên, từ trang 327 đến 353 đã viết bài : Sự nhái dạng và nghi thức: từ khóc đám ma đến hiện tượng học Cha Piô, trong đó về con người Cha Piô bà viết như sau:
-“ (Cha Piô) có khả năng cảm nhận trên người mình, không những các đau đớn của Đức Kitô mà cha tiếp nhận dấu thánh, mà cả những đau đớn tâm lý và thể lý của tín đồ tới trao đổi với cha hầu được vị hay làm phép lạ này chữa khỏi.
“ Nơi Francesconi Forgione (tên thật của Cha Piô) nói trên, người ta phát hiện một trạng thái sức khỏe mong manh do một hình thức nặng nhất của bệnh lao nó đáng lẽ phải cướp đi mạng sống của cậu thiếu niên chỉ trong mấy năm. Ít ra đây là dự phỏng của các thầy thuốc làng Pouilles quê hương cậu, cũng như của những thầy thuốc quân y đã bất chấp tất cả mà xét rằng Forgione có khả năng đi lính. Ngay khi còn niên thiếu, Francesco đã để lộ những khả năng mà tín đồ gọi là “đặc sủng”, mà một số những khả năng ấy rất quen thuộc với hiện tượng học về những “con người từ tính” (magnétique). Chỉ có điều nơi Francesco, những khả năng như thế thật quái dị và thực nhiều. Quả thế, người ta tin rằng cha có thể ở hai nơi một lúc, có thể thấu thị, làm phép lạ, tiên tri, tỏa hương.
Thêm vào đấy, còn những cái được gọi là “đặc sủng nhỏ”, đếm được sáu thứ : siêu nhiệt (thân nhiệt của cha được người ta đo lên tới 45-48oC), nhịn ăn hoàn toàn, đau thế cho người khác (bằng những đau đớn khác nhau và ở những chỗ khác nhau trên thân thể) để những bệnh nhân này được khỏi bệnh ngay, tác động vào thiên nhiên hay súc vật, bốc sáng (dấu thánh ở lồng ngực cha tỏa ra một ánh sáng đặc biệt – và trong khi cha dâng lễ, cả ngàn người quả quyết thấy dấu thánh tay cha bốc sáng), thấu thính (nghe và hiểu được mọi lời thỉnh cầu người ta chuyển đến bằng tâm trí từ khắp nơi trên thế giới, ngày cũng như đêm).
“Trong tập Nhật ký thiêng liêng riêng, cha ghi lại những huyền kiến mà cha bắt đâu tiếp nhận kể từ năm 16 tuổi, khiến cha phải chịu ma quỉ suốt đêm hành hạ, có khi cả ban ngày, cả khi cha làm lễ nữa. Trong dịp đó, Satan hiện lên trước mặt cha dưới hình người và đánh đập cha một cách hung bạo, mà dấu tích còn hiện trên mặt, trên người, với quần áo bị xé nát. Trong thời nhà tập, ô phòng cha bị tung hê, đồ đạc đảo lộn, sách vở bị xé. Khi còn ở làng quê, cha cũng bị lôi ra khỏi giường và đánh đập tàn nhẫn; và bà mẹ của cha tìm thấy khăn trải giường có nhiều vết máu. Thế nhưng từ năm 1911 đến 1916, thư từ của cha không thấy đả động đến sự quấy phá của ma quỉ nữa; cha cũng nhận được những huyền kiến và biểu hiện cảm thấy của những đấng như Đức Giêsu, Đức Trinh nữ và thánh Phan sinh.
“Ngoài những hiện tượng giác quan và huyền kiến thấy quỉ hay thần thánh khiến cha chìm đắm trong trạng thái xuất thần dài dài, những dấu thánh mà cha tiếp nhận cũng góp phần làm cha nổi danh. Những sách viết về cha phân biệt hai loại, loại nhìn thấy và loại không nhìn thấy. Loại vô hình này bắt đầu từ 1911 năm cha thụ phong linh mục. Những đau đớn đi kèm sự xuất hiện của chúng sẽ bội tăng vào Tuần thánh, từ tối thứ năm đến đêm thứ bảy: cha cảm thấy trên da thịt cái đau của chịu đòn và đội mạo gai. Và cha viết năm 1912 cho cha giải tội như sau : Từ tối thứ năm đến hết ngày thứ bảy thì đúng là bi kịch đau khổ cho con, với trái tim, bàn tay và bàn chân giống như bị gươm đâm, đau lắm”. Ngoài năm dấu thánh thường hằng (ở tay, chân và tim) ra, còn hai dấu thánh trên thân thể nữa. Một là dấu bị đòn khi cha huyền kiến Chúa chịu đánh đòn, mà vết máu trên đồ lót tỏ lộ. Hai là dấu vác thánh giá mà xem ra cha mang suốt đời trên vai phải với những vết bầm đen.
“Biểu hiện của dấu thánh hữu hình được báo trước bằng những mẩu chuyện có ý nghĩa. Đang khi cha sống ở thôn quê liền trước thời kỳ đó, thì tháng chín năm 1914 cha được tuyển vào phục vụ trong viện quân y Napoli. Trong những tháng sau đó, cha đứng trước cảnh tượng chiến tranh, nhìn những thân thể bị cắt xẻ và những người chết, đồng thời cũng cảm nhận về sự bất lực của mình trước những tai ương lớn lao như vậy. Chính trong hoàn cảnh ấy mà cha đồng hóa mình với đau khổ thể lý và tinh thần mà Đức Kitô đã phải chịu để cứu chuộc loài người chúng ta. Ngày 13-6-1917, thông điệp Fatima được gửi đi :”Biết bao linh hồn sa hỏa ngục, mà không ai hi sinh cầu nguyện cho họ”, thông điệp ấy rồi sẽ được Đức Piô XII chính thức hóa thành lời mời gọi tín đồ Công giáo chống sự ác bằng cầu nguyện, yêu thương, nhất là bác ái. Việc chấp nhận hi sinh được hiểu như khí giới chiến đấu để bù đắp vào những trật đường của thời đại, nguyên tắc ấy nhanh chóng trở thành nhật lệnh cho một nền đức lý Kitô giáo đổi mới. Thế là trong ngày lễ Thánh Thể 1918 khi tiến lễ, cha Piô đã quyết tâm dâng hiến toàn thân cho Chúa vì sự cứu độ của nhân loại. Cha quyết định, như cha nói sau này, “kéo về phía mình mọi hình phạt mà các tội nhân đáng chịu”. Và thế là cha đã biến mình thành kiểu mẫu nhái dạng thập giá Đức Kitô cách hoàn hảo ở đời này. Và đây là mở đầu cho biến cố in năm dấu thánh lớn lao.
“Những dấu thánh nhìn thấy xuất hiện mấy tháng sau, được báo trước bởi sự kiện xảy ra hôm 5-8-1918, mà người ta sẽ gọi là “sự đâm xuyên linh hồn cha”. Khi cha đang giải tội cho một tập sinh trong nhà thờ dòng, thì bỗng nhiên tâm hồn cha bị đâm xuyên rất mạnh bởi một lưỡi giáo nhọn cắm sâu vào ngực. Một thiên thần Xêraphin, tác giả của cú đâm, lắc mạnh cây giáo trong lòng cha nhiều giờ. Thế rồi, ngày 20-9-1918, cha đón nhận năm dấu thánh chảy máu và xuyên thủng (hình chữ thập, trên lồng ngực). Kèm theo là sự rỉ máu liên tục và thấy rõ trong giờ phụng vụ các thứ sáu lúc 15 giờ (giờ Đức Giêsu chịu chết), và những dấu thánh ấy tồn tại suốt 50 năm, mà không bao giờ nhiễm trùng dù không bao giờ được chữa trị. Chỉ mấy phút sau khi tu sĩ Capucin này tạ thế, ngày 23-9-1968, dấu thánh mới biến mất, như người ta có thể nhận thấy trên những bức ảnh chụp tay và chân của thi thể. Biến cố in năm dấu thánh sau thánh lễ hôm ấy, cha Piô có tả lại cho cha linh hướng biết. Cha nói cha bị bất ngờ, “trên cung thánh, trong một sự an tĩnh giống như giấc ngủ êm. Mọi cảm quan bên ngoài và bên trong con, cả những khiếu năng của tinh thần nữa, đều ở trong một an tĩnh (quiéude) khó tả. Một tĩnh lặng hoàn toàn bao trùm lên con và con buông mình vào một trống vắng hoàn toàn. Tất cả diễn ra như một tia chớp. Và khi điều ấy đang thực hiện, thì con thấy trước mắt một nhân vật huyền bí, giống như vị con đã gặp ngày 5/8, chỉ có khác là tay, chân và ngực vị hôm nay máu chảy như suối. Thấy vậy con đâm hoảng, và những gì con cảm nhận khi đó, không tài nào con tả cho cha hiểu được. Con cảm thấy mình đang chết, và ắt con đã chết nếu Chúa không can thiệp để đỡ nâng trái tim con nó như đang vuột khỏi lồng ngực. Nhân vật nói trên biến khỏi mắt con, và con thấy tay, chân và ngực con bị thủng và chảy máu”.”
Cách lý giải của giáo sư Silvia Mancini
Áp dụng lý thuyết của học giả Ernesto de Martino, xem ra Silvia Mancini muốn giải thích hiện tượng khổ nghiệm nơi Cha Piô bằng sự “nhái dạng” (mimoumai, mimêsis) hay rập khuôn qua tác động huyền thoại-nghi lễ. Đây thuộc lãnh vực siêu tâm lý (métapsychique), với biểu tượng (symbole) tôn giáo nó nối thông ý thức trường với vô thức tập thể. Những kinh nghiệm nguyên thủy (từ người cổ xưa để lại trong ta) và năng lượng thần thiêng đi kèm, qua biểu tượng tôn giáo ấy có thể đổ ập như sóng thần vào hệ tâm sinh, mà không gì cản nổi. Và nếu đương sự đang ở trong tình trạng ý thức cá thể (individuation) suy thoái, đang mơ mơ màng màng, thì sự nhái dạng, tức bắt chước, rập khuôn, dễ xảy ra. Giống như trong cơn lên đồng ấy mà! Để rồi nhờ tác động tâm lý siêu mạnh ấy, từ nhái dạng cảm tính có thể phát sinh nhái dạng thể tính (corporel) luôn. Nhất là khi có sự trợ lực của bầu cuồng khí tập thể vây kín lấy. Thí dụ: đương sự tưởng như mình là người yêu bị đâm vào bụng, và lập tức cảm thấy bị đau ở bụng thật, thậm chí ở bụng cũng thấy nổi lên vết đâm nữa.
Để có thể diễn ra sự nhái dạng thể tính (corporel) hiếm hoi ấy, phải có bốn điều kiện. Trước hết, (1) đây là một tác động cảm tính cực mạnh, từ vô thức tập thể vọt ra nhờ biểu tượng huyền thoại-nghi lễ, và sức mạnh ấy có thể được bội tăng nhờ cảm xúc tôn giáo tập thể của đám đông vây quanh. Thế rồi (2) đương sự phải có một tâm hồn siêu nhạy cảm, và cả tâm hồn lẫn thể xác rất dễ bị tổn thương. Cuối cùng, (3) đương sự là một con người từ tính (sujet magnétique), dễ hút lấy vào mình tâm trạng của người khác, lại (4) đang ở trong tình trạng ý thức cá thể suy thoái, để có thể tưởng mình là ai đó, chứ không phải là mình.
Xem ra Cha Piô có đủ ba điều kiện trên. Năm dấu thánh bốc sáng trong thánh lễ, lại chỉ hiện tỏ nhất trong dịp Tam nhật Tuần thánh, cái bầu khí Tam nhật thiêng liêng dễ gây cảm xúc lớn nơi cha, và cảm thức ấy được bội tăng nhờ cảm xúc tập thể của Dân Chúa vây quanh cha trong dịp ấy, nhất là khi Dân ấy lại đang sùng mộ cha rất mãnh liệt.
Xem ra cha cũng là một con người từ tính và với tâm hồn siêu nhạy cảm, khiến dễ khổ lây nỗi khổ của Chúa và của người xung quanh. Cha nhịn ăn thường xuyên, lại bệnh lao nặng nữa, nên xem ra cũng rất dễ bị tổn thương cả về mặt tâm lý và thể xác khi gặp lo lắng hay cảm xúc mạnh. Có điều ngài là một vị thánh, mà để làm thánh thì phải phấn đấu mãnh liệt và liên tục, nên tự chủ rất cao, không thể suy thoái về ý thức, kể cả ý thức cá thể. Ngài đã tự ý dâng mình chịu khổ thay kẻ có tội trong ngày lễ Thánh Thể, sau đó thấy mình bị đâm khi đang giải tội, và năm dấu thánh xuất hiện khi trong tình trạng huyền nghiệm an tĩnh (quiétude), mà trong trạng thái huyền nghiệm, thì người ta không mơ màng, không giảm suy ý thức, mà chỉ bị cuốn hút vào bên trong, nên không để ý đến bên ngoài và những gì khác, thế thôi.
Vâng, không hề có trạng thái “lặp lại thôi thúc” (répétition compulsive) hay “bệnh chứng tâm thần” (symtôme), nghĩa là do vô ý thức, ngoài ý muốn. Nhất là khi sự hiến thân chịu phạt thay lại xảy ra (lễ Thánh Thể 1918, tức khoảng tháng sáu) ba tháng trước khi xuất hiện Năm dấu thánh (ngày 20/9/1918), còn huyền kiến bị đâm (5/8/1918) thì trước sáu bảy tuần. Quả thật, Năm dấu thánh, như một tật thương ở thân thể, cha tiếp nhận vào lúc cha không ngờ tới, lúc đang an tĩnh trong cảm nghiệm trống vắng, chứ không trong cảm nhận về cái chết của Thầy hay trong bầu khí tôn giáo cuồng nhiệt. Vâng, trường hợp Cha Piô không giống với những trường hợp nhái dạng tự nhiên mà các nhà nghiên cứu diễn tả. Và chính Silvia Mancini cũng nhận ra những khác biệt ấy[3].
Lý giải bằng chữ Huyền
Người ta dễ thành vĩ nhân nếu vừa có một năng khiếu bẩm sinh nào đó, vừa có một ý chí sắt thép để theo đuổi lý tưởng. Các thánh Kitô giáo cũng vậy thôi. Năng khiếu nơi các ngài không nằm ở cơ thể, giác quan, ở trí khôn, trí nhớ hay óc tưởng tượng, mà ở cảm tính. Vâng, họ phải cảm sâu và nhạy cảm để có thể yêu thương mãnh liệt, khi mà Kitô giáo là đạo của tình yêu, và Thiên Chúa của họ được thánh Gioan cảm nhận là Tình yêu, Agapê.
Cứ xem vị thánh mà cuộc sống xem ra rất yếu chữ Huyền : Têrêsa Giêsu-nhỏ, thì rõ. Trong Tự truyện của chị, mẹ chị quả quyết trrong thư, rằng chị rất nhạy cảm và biểu cảm (expansive). Nhạy cảm đến nỗi xưa “tiểu yêu” (lutin) và biểu cảm là thế, mà khi mẹ chết rồi, thì tính tình thay đổi hẳn, cô bé trở nên nhút nhát và dịu dàng, lại hơi tí trạnh lòng, khóc ngay[4].
Cha Piô xem ra càng nhạy cảm hơn. Lòng thương người mãnh liệt đến nỗi thấy ai đau khổ là đau lây nỗi khổ, thậm chí lây luôn thương tật của họ. Chỉ có điều đau lây mà khiến họ hết đau và hết bệnh, thì điều này không còn trong khả năng tự nhiên của những “con người từ tính” nữa. Nghĩa là phải có phép lạ. Lại cũng lạ vượt trên tự nhiên như thế cả cái khả năng nhái dạng quá hoàn hảo và nhái dạng cả khi tỉnh táo của cha. Nói chi việc sống thọ của cha bất chấp tình trạng lao nặng nhất, bất chấp thân nhiệt lên đến 45-48oC, bất chấp những đau đớn lớn lao phải chịu suốt bao năm trường. Vâng, nơi cha cái siêu nhiên đã trở thành thường hằng và rất tự nhiên, và đây không còn là khổ nghiệm mà huyền khổ nghiệm : một huyền nghiệm (mystic experience) nó kéo dài suốt đời cả trong tỉnh táo, và đây là hôn nhân thiêng liêng trong từ vựng Têrêsa Giêsu (Avila) với chiêm không còn phân khỏi hành động và đời sống thường nhật.
Quả thật, không thể giải thích Hiện tượng Cha Piô mà không dùng đến chữ Huyền. Không chỉ giản đơn là cái Huyền của phép lạ từ ngoài, mà cái Huyền của huyền nghiệm nó vọt lên từ vô thức. Vâng, từ thẳm sâu vô thức, trong ân sủng và bằng tín-vọng-ái thiên phú tôi vẫn huyền nghiệm sự kết hiệp của tôi với Chúa rồi. Nay nếu nhờ pháp lực Thánh Thần mà huyền nghiệm căn bản nói trên tràn ra tí ti ở ý thức, thì ta cảm nhận được sự có mặt thân thương của Chúa với ta, và đây là huyền nghiệm hiện tượng, huyền nghiệm theo ý nghĩa quen thuộc của nó. Vì huyền nghiệm này vọt lên từ vô thức, nhất là từ cõi tối thánh thiêng của Thiên Chúa hiện diện, nên nó mới mang một sức mạnh cảm tính rất lớn làm mê ly lòng người, với dấu ấn không mờ phai, khiến Têrêsa Avila không thể gọi đây là an ủi (consolation) nữa, mà mỹ vị (gout). Nhất là khi cái mỹ vị ấy biến thành “tên lửa” trong xuất thần, chỉ diễn ra trong thoáng chốc thôi, mà đã thấy chịu không nổi. Mà thực ra, cũng chỉ cái sức mạnh thánh thiêng ấy của vô thức mới giúp thánh nhân chịu được những tên lửa như thế mà không chết. Và cũng thế trong huyền khổ nghiệm : thánh Phêrô Canisius tưởng bỏ mạng khi trong một thánh lễ kia ngài cảm nghiệm sự bất xứng của mình!
Huyền khổ nghiệm của Cha Piô là nhái dạng của Chúa Giêsu
Ân sủng, đó chẳng qua là Chúa yêu ta (ân sủng vô tạo), sự kiện nó biến ta thành đáng yêu (ân sủng thụ tạo) từ sâu trong vô thức. Để rồi từ sâu trong vô thức, ta nên một với Chúa Giêsu, và nơi Chúa Giêsu ta trở thành con Cha khi Thánh Thần kêu lớn trong ta Abba, Cha ơi. Thế nghĩa là trong ân sủng, chúng ta đang nhái dạng Chúa Giêsu từ sâu trong vô thức, để rồi ở ý thức nếu ta hành động theo hướng đi của Phúc âm, sự nhái dạng ấy sẽ hiển ra dần dần ở cuộc sống, khiến ta cảm thấy “tôi sống mà không phải tôi nữa, nhưng Chúa Kitô sống nơi tôi” (Gal.2.20).
Thế nhưng trong ân sủng và bằng tín vọng ái, tôi nhái dạng Chúa Giêsu ở tư thế hay tình trạng nào đây? Bởi lẽ nếu được đồng hóa hoàn hảo với Chúa trong tình trạng thăng vinh (exaltation, sự hoàn tất của phục sinh) của Ngài, ắt tôi phải “hóa kiếp” thành thánh trên trời rồi. Theo thánh Phaolô, khi chịu phép Rửa (Dìm), chúng ta được chôn đi với Chúa để sống lại với Ngài (Rom.6.4-5). Nghĩa là bằng ân sủng phép Rửa, chúng ta nhái dạng Chúa Giêsu trong tư thế chịu chết để nhờ đó sẽ phục sinh. Để rồi khi dâng thánh lễ, chúng ta lại nhái dạng cái chết của Chúa một cách hoàn mỹ hơn khi ta “làm việc này mà tưởng nhớ Thầy”, khi ta ăn “Mình Thầy bị nộp” vì chúng ta và uống Máu Tân giao ước.
Quả thực, trong ân sủng, thánh giá Chúa đã thành hiện thực nơi thâm tâm chúng ta, còn sự phục sinh của Ngài chỉ mới được ương mầm để ta“sẽ sống lại với Ngài”, sống lại bây giờ bằng sự sống mới (sự sống siêu nhiên) (c.4), sống lại sau này bằng sự sống vinh phúc (c.5). Có nghĩa là thánh giá Chúa là sự đầu tư hiện thời cho sự phục sinh vĩnh cửu đó. Để rồi mỗi khi ta tìm hi sinh hay chấp nhận hi sinh vì Chúa, thì chúng ta đã đưa sự nhái dạng thánh giá có sẵn bên trong vào cuộc sống bên ngoài, và đó cũng là khiến sự nhái dạng thập giá bên trong hiển định thêm, khiến mầm phục sinh bên trong lớn thêm một tí.
Vậy Năm dấu thánh của Cha Piô không do phép lạ mà đến từ bên ngoài đâu. Cũng như chúng ta, cha đã mang “năm dấu thánh” từ sâu trong vô thức rồi. Phép lạ chỉ làm cho năm dấu thánh ấy hiển hiện nơi thân thể và trong cảm nhận đau đớn của cha, thế thôi. Thế nghĩa là huyền khổ nghiệm ở vô thức, nhờ phép lạ đã hiển thành huyền khổ nghiệm tâm sinh lý, tức hiện tượng Năm dấu thánh và cảm nhận đau đớn đi kèm. Dĩ nhiên là sự siêu nhạy cảm và trạng thái từ tính bẩm sinh của cha có trợ sức thêm cho phép lạ. Thế nhưng cái sức để nhái dạng cảm tính thành mãnh liệt đến nỗi gây nên Năm dấu ở thân thể thì chỉ có thể do huyền nghiệm, và cũng do huyền nghiệm mà sức chịu đựng thành ghê gớm để Cha Piô có thể vừa sống tiếp tục vừa không bị xỉu đi. Nhất là vẫn có thể làm việc và tiếp xúc với thái độ ôn hòa và bình tĩnh.
*
Nếu từ huyền khổ nghiệm căn bản (sự nhái dạng Chúa chịu chết : chôn đi với Thầy) mà Cha Piô nhái dạng bên ngoài bằng cả cảm nhận đau đớn lẫn năm dấu thánh trên thân thể, thì những người như Têrêsa Nhỏ chỉ nhái dạng tâm lý thôi. Đó là khi đứng trước cái chết đang đến do bệnh lao (cũng lại bệnh lao!), chị cảm thấy vui sướng sắp được về Nhà Cha, thì bỗng nhiên nghĩ đến sự bất hạnh của biết bao linh hồn đáng sa hỏa ngục vì không tin, chị được ơn nhái dạng họ trong tình trạng vô vọng đó bằng cảm nghiệm tối đen về hư vô, và chị chịu sự “cám dỗ đức tin” ghê gớm ấy (nó cũng là đêm tối tinh thần trong từ vựng Têrêsa Mẹ) suốt cho đến trước lúc trút hơi thở cuối[5].
Nhìn ngược về khổ nghiệm Chúa Giêsu
Huyền khổ nghiệm của Têrêsa-Nhỏ có gì hao hao với khổ nghiệm của Chúa Giêsu trên thập giá khi Ngài kêu lớn tiếng :”Cha ơi! Cha ơi! Sao nỡ bỏ con”. Đứng về phía loài người đáng tội, Chúa đã kinh nghiệm sự ruồng bỏ của Cha, sự thiếu vắng Thiên Chúa. Và đây là huyền nghiệm, nghĩa là từ huyền nghiệm căn bản ở vô thức[6] vọt ra. Huyền nghiệm căn bản ấy nơi Chúa Kitô, đó là, ở tư thế Đầu loài người đáng tội, Chúa chịu sự ruồng bỏ của Thiên phụ.
Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ nhái dạng loài người suông, mà nhái dạng loài người trong tư thế và tình trạng đáng tội và bị ruồng bỏ. Chứ nếu chỉ nhái dạng loài người đứng về mặt nhân tính suông, thì khi Ngôi Lời nhái dạng nhân tính để thành người, nhân tính ấy cũng nhái dạng thiên tính một cách hoàn hảo qua mầu nhiệm vị (ngôi) hiệp (union hypostatique) để thăng vinh (exaltation) ngay lập tức, chứ không ở lại trần gian nữa.
Chính cái tư thế đáng tội của loài người, cũng là mầu nhiệm bị ruồng bỏ đè nặng trên Ngài đã giữ Ngài lại giữa các anh em tội lỗi. Và không chỉ có thế. Từ sâu ở nền tảng vô thức bên trong, vốn là Thiên Chúa và con Cha, Ngài thường hằng kinh nghiệm : “Ta với Cha là một”. Nên nếu ở ý thức Ngài cũng cảm nhận luôn luôn như thế, rằng “Ta với Cha là một”, để “ Cha làm gì, Ta cũng làm thế”…, thì đây chính là huyền nghiệm (mystic experience) nó từ vô thức vọt ra, và huyền nghiệm thường hằng. Huyền nghiệm mà vẫn hành động và sống bình thường, nên đây còn là hôn nhân thiêng liêng[7]. Huyền nghiệm Là con Cha và Ta với Cha là một, nên đây lại là huyền kiến tuệ trí (và hơn là tuệ trí) về Ba Ngôi Thiên Chúa[8].
Chẳng những huyền nghiệm “Ta với Cha là một”, Chúa đồng thời cũng huyền nghiệm về tư cách Đầu loài người đáng tội của Ngài, nên đây là huyền khổ nghiệm :”Tự hủy mình đi, mang lấy hình thức nô lệ” (Php.2.7), mà đỉnh cao là trên thập giá ở khoảnh khắc : Hêli hêli lamma sabacthani!, với khúc dạo đầu tại Vườn Dầu :” Xin lấy đi chén này. Nhưng…”
Vì huyền nghiệm thường hằng về cả hai vế, vế (1) Là một với Cha và vế (2)Là một với loài người đáng tội, nên cuộc sống Chúa buồn vui lẫn lộn. Theo Têrêsa Avila, trong huyền nghiệm, nhất là trong xuất thần, hồn đã thoáng thấy Thiên Chúa thật vô cùng đáng mến, nên hồn say yêu và khát muốn bay ngay về với Chúa. Muốn về ngay với Chúa mà khoảng cách lại còn, khiến cho sướng đấy mà cũng khốn khổ vô ngần. Và đây cũng là nỗi buồn của Chúa Giêsu. Là một với Cha, nên Ngài cảm nhận sự gần gũi và mến yêu say đắm. Thế nhưng trạng thái đáng tội của loài người anh em lại đè nặng trên vai, khiến Ngài cảm nhận sự nhớ Trời và xa Cha, và đây là nỗi huyền khổ không bút nào tả nổi. Khổ nghiệm “Sao Cha nỡ bỏ con” trên thập giá chỉ là sự hiển định hoàn hảo nhất của cái kinh nghiệm căn bản vế 2 (Là một với loài người đang bị ruồng bỏ) vẫn có từ sâu bên trong, và việc chịu dìm (rửa) chung với kẻ tội lỗi trên sông Gióc đăng chỉ là biểu hiệu bề ngoài thôi.
Chính vì đây là huyền nghiệm, từ vô thức tập thể (của ngàn đời dòng giống người đáng tội) tràn hiển lên, nên nó mang tất cả năng lượng thần thiêng và nguyên thủy ghê gớm ấy, khiến huyền khổ nghiệm của Chúa mãnh liệt vô cùng, và sức chịu đựng cũng vô song luôn[9]. Vâng, chính vì Chúa Kitô đã nhái dạng hoàn hảo loài người đáng tội, nên đến lượt chúng ta, để bước vô con đường cứu độ, cũng nhái dạng Chúa trong tư thế chịu đóng đanh : sự nhái dạng này sẵn có từ sâu trong vô thức, để từ sâu vô thức có thể tràn ra thành năm dấu thánh cho một số người qua tác động của phép lạ.
[1] Biên tập từ trong Collège de France (Học viện Pháp quôc) chuyên giảng dạy và nghiên cứu, trực thuộc tổng thống Pháp.
[2] 1887-1968. Được phong thánh năm 2002 trước sự chứng kiến của hằng triệu người đến dự lễ.
[3] Mimétisme et rite, tr.350-353.
[4] Xx. Manuscrits autobiographiques, 1957, tr.33.
[5] Sđd., tr.250-253.
[6] Đúng là nhân tính Chúa có vô thức, khi mà ở nền tảng là vô thức Ngài phải biết mọi cái, nhưng ở ý thức thì có cái Ngài tự nhận không biết.
[7] Xx. Hoành Sơn, Thần học thiêng liêng 2, tái bản, tr. 760tt..
[8] Sđd., tr.761.
[9] Xx. Hoành Sơn, Con người, nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2005, tr.242-243.