Việt Nam (tt) – Phần I: Thời Kỳ dựng nước

2. THỤC VƯƠNG CHIẾM LẤY VĂN LANG, ĐỔI TÊN NƯỚC LÀ ÂU LẠC, ĐÓNG ĐÔ Ở PHONG KHÊ

Họ Hồng Bàng làm vua “cả thảy hai ngàn sáu trăm hai mươi hai năm (2879-258 trước CN), không biết lấy bằng cứ ở đâu”[10]. Vào năm Quý Mão (258 tr.CN), Thục Phán đem quân chiếm lấy Văn Lang, đổi tên nước là Âu LẠC, đóng đô ở Phong Khê. “Theo sử cũ, vương họ Thục, tên Phán, người nước Ba Thục”[11]. sử thần nhà Nguyễn không tin Phán là người Ba Thục vì nước này cách Văn Lang tới hai ba ngàn dặm, khó mang quân đến lắm, vả lại khi ấy Ba Thục đã bị tiêu diệt rồi, đâu còn vua nữa, nên phỏng đoán: “Hoặc giả ngoài cõi tây bắc, gần nước Văn Lang, còn có một họ Thục khác bèn được nhận là Thục Vương cũng chưa biết được. Nếu nói Thục Vương là người Ba Thục thì không đúng”(3). Mùa xuân, tháng Ba, “vua xây thành ở Phong Khê, rộng một ngàn trượng, xoay quanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa thành” (ở Cổ Loa nay), về nguồn gốc Thục Phán và Ba Thục, còn khá nhiều giả thuyết khác nữa[12].

Một truyền thuyết bằng thi ca của người Tày nói về bộ lạc Nam Cương xưa, có lẽ giúp ta hiểu rõ hơn về Thục Phán và tại sao đặt quốc hiệu là Âu Lạc. “Ớ phía Nam Trung Quốc, đầu sông Tả Giang, về gần nước Văn Lang, có bộ Nam Cương, hùng cứ một phương. Bộ này do Thục Chế tức An Tri Vương đứng đầu, đóng đô ở Nam Bình do chín xứ hợp thành. Các xứ cứ ba năm triều cống một lần. Chín xứ ấy là: Thạch Lâm, Hà Quảng, Bảo Lạc, Thạch An, Phúc Hoa, Thượng Lang, Quảng Nguyên, Thái Ninh, Quy Sơn… Thục Chế làm vua 60 năm, thọ 95 tuổi. Con là Thục Phán lên thay”[13]. Người của bộ lạc Nam Cương và các xứ lân cận cũng là một dân tộc Việt mà Trung Quốc gọi là Quỳ Việt hay Tây Âu. Sau này có sắc dân nguời Choang và nguời Tày, chính là hậu duệ của Tây Âu. Khi Thục Phán chiếm đuợc Văn Lang thì hợp nhất hai nhóm dân tộc Âu Việt (cũng gọi là Tây Âu) với Lạc Việt thành một Quốc gia và lấy quốc hiệu là Âu LẠC. Nước Âu Lạc chưa chia ra đơn vị hành chính, mà vẫn giữ các bộ lạc tự trị và cha truyền con nối. Đó là các bộ lạc: (Bản đồ 3)

Mê LinhTây VuLiên Lâu
Long BiênChu DiênBắc Đái
Kê TừAn ĐịnhCâu Lậu
Khúc DươngVô CôngDư Phát
Tư PhốCư PhongVô Biên
Đô LungHàm Hoan

 

Bộ lạc Tây Vu là bộ lạc căn bản của Thục Phán, nguyên trước chỉ ở miền thượng lưu sông Lô, bao gồm cả miền thượng lưu sông Gầm và sông Chảy, tức miền Hà Giang và bắc Tuyên Quang ngày nay. Địa bàn này là nơi cư trú chủ yếu của người Tày. Họ cũng ở trên một phần đất của Long Biên nữa[14].

Dân số cuối thời Âu Lạc, ở niên đại 180 trước Công nguyên, có khoảng 600.000 người.

Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc, thì bên Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất thiên hạ. Năm 214 trước CN, Thủy Hoàng sai Đồ Thư đi đánh Bách Việt. An Dương Vương đành chịu phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Âu Lạc thành ba đơn vị gọi là:

–           Quận Nam Hải (Quảng Đông).

–           Quận Quế Lâm (Quảng Tây).

–           Tượng Quận (Bắc Việt).

Với những sử liệu phát hiện gần đây, niên đại của nước Âu Lạc đuợc điều chỉnh lại: Nhà Tần đem quân xâm chiếm địa bàn Tây Âu của Thục Phán và Lạc Việt của Hùng Vương năm 214 trước CN. Năm 208 trước CN, Thục Phán đứng đầu cả 2 bộ lạc Tây Âu và Lạc Việt, đuổi được quân nhà Tần, rồi lập ra nước Âu LẠC và xưng là An Dương Vương (208-179 tr.CN)[15], chỉ tồn tại khoảng gần 30 năm. (Bản đồ 4)


 


[1]    Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (VNSL). In lần thứ 6 – Tân Việt, Sài Gòn, 1958. tr23.

[2]    KĐVS, sđd, tr.11-13.

[3]    Như trên. tr. 17-23.

[4]    KĐLS, sđd, trang 17. – Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch Sử Việt Nam I (LSVN). NXB Đại Học và Trung Học chuyên nghiệp. Hà Nội, 1985. Trang 105, cước chú 2: “Hiện nay có ba danh sách khác nhau về 15 bộ của nước Văn Lang được chép trong những thư tịch xưa nhất của ta. Việt Sử Lược chép là: Giao Chỉ, Việt Thường Thị, Vũ Ninh, Xuân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thanh Tuyền, Tân Xương, Bình Văn, Văn Lang, cửu Chân, Nhật Nam, Hoài Nam, Cửu Đức. – Lĩnh Nam Chích Quái chép là: Giao Chỉ, cửu Chần, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Minh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chần, Nhật Nam, Chân Định, Quế Lầm, Tượng Quận. – Dư địa chí của Nguyễn Trãi và KĐVS ghi lại như trên”.

[5]    KĐVS, sđd, trang 19-21.

[6]    LSVN, sđd, trang 105.

3.4. Như trên, trang 107-109.

[8]    Như trên, trang 107-109.

[9]    Trần Trọng Kim, VNSL, sđd. tr.23-24.

[10]  KĐVS, sđd, tr.37.

[11]  Như trên, tr.37.

[12]  Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời. NXB Khoa Học Hà Nội, 1964. tr.18-20.

[13]  Như trên, tr.20.

[14]  Như trên, tr.27.

[15]  Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sđd, tr 141-144.

Kiểm tra tương tự

Năm Ất Tỵ: Bàn về con rắn – Biểu tượng Thiện hay Ác?

Theo Âm lịch, năm 2025 là năm con Rắn. Dù yêu hay ghét, những chú …

Thông điệp Truyền thông 2025: ‘Giải trừ vũ khí trong truyền thông’ để nuôi dưỡng niềm hy vọng và sự hiệp nhất

Nhân Ngày Thế giới Truyền thông, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố Thông điệp …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *