Đến giai đoạn này, thánh I-nhã tỏ ra đã thành thạo về nhận định thần loại. Những kinh nghiệm thiêng liêng quan trọng của giai đoạn đang tiến tới trong đời sống thiêng liêng này sẽ được ngài đúc kết trong Các quy tắc nhận định thần loại trong tuần 2 của Linh Thao.
“Đặc điểm của Thiên Chúa và của các thiên thần của Ngài trong những thúc đẩy của Ngài và của các thiên thần là ban sự hoan hỉ và niềm vui thiêng liêng chân thật, trong khi gạt bỏ đi mọi sự buồn rầu và xáo động do kẻ thù gây ra; đặc điểm của kẻ thù này là chiến đấu chống lại sự hoan hỉ và sự yên ủi thiêng liêng kia bằng cách đưa ra những lý do (chỉ có dáng vẻ) bề ngoài, những cái xảo diệu và những lừa đảo liên tiếp”[130]. Thánh Phaolô cảnh giác: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng” (2 Cr 11,14). Vì thế, “Chúng ta phải chú ý nhiều đến diễn biến của các ý tưởng và nếu phần khởi đầu, phần giữa và phần cuối, tất cả đều thật là tốt, hướng về sự thiện trọn vẹn, thì là dấu hiệu của thiện thần; nhưng nếu diễn biến của các ý tưởng (do thần) đưa tới, kết thúc bằng một điều nào đó xấu hoặc làm cho đãng trí, hoặc bằng một điều nào đó không tốt bằng điều mà trước đó linh hồn đã định làm, hoặc nếu diễn biến đó làm cho linh hồn suy nhược hoặc lo lắng hoặc bối rối bằng cách cất khỏi linh hồn sự bằng yên, sự êm lặng và sự an tĩnh mà linh hồn đã có trước kia, thì là dấu hiện rõ ràng điều đó đến từ ác thần, kẻ thù chống lại ích lợi và phần rỗi đời đời của chúng ta”[131].
Giữa bao soi sáng và an ủi trong giai đoạn cuối ở Manresa, thánh I-nhã vẫn phải lần mò tiến bước, nhưng kết quả là ngài thực sự trở thành bậc thầy về đời sống thiêng liêng nói chung và cách riêng về nhận định nguồn gốc các tác động, do bản tính tự nhiên hay do ân sủng.
Đến đây, có hai thay đổi lớn nơi thánh I-nhã là nói chuyện thiêng liêng và soạn Linh Thao.
Laínez cho biết tại Manresa, thánh I-nhã “cảm nếm những điều thuộc về Chúa và thông truyền cho người khác với sự đơn sơ và bác ái”[132]. Bà Margarita Capdepos, vợ góa của một người thợ mộc tại Manresa, khai trước tòa điều tra phong thánh: “Ngài mặc áo như một hối nhân. Ngài ở trong nhà tế bần Santa Lucia với những người nghèo. Ngài phục vụ họ, đặc biệt những người bệnh tật, một cách rất khiêm tốn, lo cho các nhu cầu của họ… Ngài năng xưng tội rước lễ, đọc tất cả các giờ kinh (thần vụ). Ngài sống rất nhiệm nhặt và làm việc đền tội, nhịn đói cả tuần, đánh tội bằng dây… Ngài đi dạy giáo lý công khai ở phố và chính bà là một trong nhiều người theo ngài. Ngài cũng đi hành khất từ nhà này đến nhà khác trong phố, một cách rất khiêm tốn. Bà nghe ngài nói với người ta là với những điều họ cho ngài, ngài giúp đỡ được nhiều người nghèo. Ngài cũng đi thăm viếng người đau ốm khắp nơi trong phố. Bà cũng nhớ là ngài thúc giục người ta năng xưng tội rước lễ.”[133] Đó là điều ngài gọi là “giúp đỡ các linh hồn”[134] : không chỉ chăm lo việc đạo hay phần hồn, mà cả về đời sống vật chất, đặc biệt những người nghèo và ốm đau.
Nadal cho biết ân sủng mà thánh I-nhã nhận được trước hết biến đổi bản thân ngài, và khi đã bén rễ sâu trong tâm hồn, các hành động của ngài cũng biến đổi theo. Sau đó, ngài truyền sang cho người khác[135]. Ban đầu ngài gặp và nói chuyện với những người trong nhà tế bần Santa Lucia. Ít lâu sau, những người khác cũng muốn đến nghe. Dần dần ngài tập họp được một số phụ nữ đạo đức như các bà Inés Pascual, Angela Amigant, Micaela Canyelles, Inés Claver, Brianda de Paguera… Ngài nói về đời sống thiêng liêng với họ, khuyến khích họ năng xưng tội rước lễ và làm việc bác ái. Dân Manresa gọi họ là các Iniguas, theo tên ngài. Joseph F. Conwell cho rằng chắc chắn những điều thánh I-nhã, lúc ấy chỉ là một giáo dân, làm tại Manresa đề ra một cách sống, và có thể nói phần nào đó nêu lên một khuôn mẫu cho hoạt động tông đồ của Dòng Tên mà ngài sẽ sáng lập[136].