II. Thư báo tin Alexandre de Rhodes qua đời
1. Vài điều cần lưu ý
Chính bức thư do cha Amé Chézaud viết trong 3 trang giấy khổ 20cm60 x 29cm50, chữ viết nhỏ li ti, văn dài lê thê, nhiều chỗ chấm câu không rõ ràng, lại là thứ tiếng Pháp thế kỷ 17. Chính vì vậy, khi phiên dịch sang tiếng Việt, chúng tôi không thể dịch theo nghĩa từng chữ; đàng khác cũng không thể chấm câu hoàn toàn như nguyên bản. Chắc chắn trong bản dịch này có nhiều khiếm khuyết, mong bạn đọc chỉ giáo.
2. Tờ thứ nhất của bức thư
Tờ thứ nhất của bức thư là tờ giấy trên đó viết mấy dòng chữ, đề tên, địa chỉ người nhận và tên cùng địa chỉ của người mà tác giả muốn nhờ ông chuyển cho người nhận thư. Chúng tôi tạm coi tờ giấy này như một bao thư, dù không mang hình thức bao thư, không dán kín. Sau đó sang tờ thứ hai trở đi mới chính thức là bức thư. Vậy chúng tôi xin mô tả chi tiết hơn mấy dòng chữ tờ thứ nhất của bức thư này.
Trên cùng trang giấy của tờ thứ nhất, có ba loại nét chữ khác nhau, chứng tỏ do ba người viết: Amé Chézaud và hai người khác.
a. Trước hết là nét chữ của chính tác giả bức thư, cha Amé Chézaud:
Gửi cha đáng kính / Jacques Renault / Giám tỉnh Dòng Tên Pháp / tại Parys.
(A Mon Reuer, Pere / Le P.Jacques Renault Pro = / uincial de france de la Compagnie / de Jesus / a Parys)
Nhờ cha đáng kinh Georges / de Rhodes cũng thuộc Dòng Tên / tại Lyon.
(Rẽcommandee au R.P.Georges / de Rhodes de la mesme Compie / a Lyon.
b. Tiếp đến là chữ một người khác viết bằng La ngữ, nhưng chúng tôi không biết của ai; chỉ phỏng đoán của người làm việc ở Kho lưu trữ;
Cha Alessander de / Rodes / qua đời / tại Aspan tháng 11/1660.
(Obiit / P. Alessander de / Rodes Aspani nouẽ / 1660)
c. Sau cùng nét chữ của người thứ ba, trên cùng trang giấy; chúng tôi cũng không biết do ai viết:
Thư này được viết / do chính tay / cha Aymé Chezaud.
(Cette lettre est escrite / de la propre main / du P.Aymé Chezaud)
Để bạn đọc hiểu biết rộng hơn, chúng tôi xin ghi lại tiểu sử hai nhân vật mà chúng tôi có tư liệu: Amé Chézaud và Georges de Rhodes:
Amé Chézaud (1604-1664); chính cha Chézaud ký tên Amé Chézaud trên bức thư cha viết tại Ispahan ngày 11-11-1660, đưa tin cha A.de.Rhodes qua đời; có người lại viết tên cha là Aymé Chezaud; còn cha Joseph Déhergne viết là Aimé Chézaud. Cha Chézaud sinh năm 1604 tại Lyon; giai nhập Dòng Tên tại Avignon 22-9-1627; khấn trọng tại nhà thờ thánh Giacôbê của Dòng Tên tại Marseille ngày 7-6-1637. Năm 1639 Chézaud đi truyền giáo tại Syria; năm 1652 cha lập cư sở (residentia) Dòng Tên tại Julfa gần Ispahan; khi cha Alexandre de Rhodes đến Ispahan làm bề trên cộng đoàn Dòng Tên ở đây, thì (có lẽ) chuyển cộng đoàn ở Julfa vào Ispahan. Từ khi Alexandre de Rhodes có mặt tại Ispahan, 1655, cho đến khi qua đời, 1660, Chézaud luôn ở với cha, trừ khoảng 11 tháng, 1658-1659, Chézaud theo lời yêu cầu của Alexandre de Rhodes, đi đường bộ theo ngả Khorassan đến vùng Tartarie truyền giáo. Không thành công, Chézaud lại trở về Ispahan khoảng cuối năm 1659 đầu 1660. Chézaud qua đời tại Ispahan ngày 14-9-1664 [8].
Georges de Rhodes (1597-1661), sinh tại Avignon 28-12-1597; là em ruột của cha Alexandre de Rhodes; gia nhập Dòng Tên tại Avignon 16-10-1613; qua đời tại Lyon 17-5-1661. Khác với anh mình là Alexandre, quãng đời của Georges quanh quẩn trong vùng Avignon và Lyon. Có lẽ chưa bao giờ Georges ra khỏi nước Pháp, chứ đừng nói đến việc đi tới những miền đất xa lạ ở châu Á như Alexandre. Xem ra hoạt động của Georges tập trung vào việc dạy học nhiều hơn; vì trong gần 25 năm trời cha dạy học ở trường Trinité và Notre-Dame-du-Bon-Secours là hai trường của Dòng Tên tại Lyon. Các môn Georges giảng dạy: Nhân văn (Humanités): 3 năm; Văn chương (Rhétorique): 2 năm; Triết học: 6 năm; Tín lý: 11 năm; Luân lý: 2 năm. Những năm cuối đời, Georges làm Viện trưởng Notre-Dame-du-Bon-Secours. Georges viết những bộ sách lớn bằng La ngữ, được ấn hành vào các năm 1661, 1664 và 1671:
Disputationum Theologiae scholasticae in quibus Deus, angelus, homo, sex Tractatibus explicantur. Tomus prior, Lyon 1661, in-fol, 692tr.
Disputationum Theologiae scholasticae in quibus Christus, Deipara, Sacramenta, sex Tractatibus explicantur. Tomus prior, Lyon 1661, in-fol, 680tr.
Philosophia peripatetica, ad veram Aristotelis mentem. Libris quatuor digesta & disputata, pharus ad Theologiam scholasticam, Lyon 1671, in-fol, 704tr.
3. Bức thư phiên dịch sang tiếng Việt từ nguyên bản Pháp ngữ, kèm theo chú thích:
“Thư Luân lưu [9] về cha Alexandre de Rhodes qua đời
“Thư cha đáng kính. Bình an của Đức Kitô [10]. Xin báo tin cha hay, cha Alexandre de Rhodes đã qua đời tại đây vào ngày 5 tháng mười một, sau một cơn bệnh lâu dài và lên xuống thất thường. Bởi vì bệnh sưng bụng làm cha yếu mệt hầu như trọn tháng chín, tiếp đến là bệnh nhức buốt tai hại làm cha đôi khi không dâng Thánh lễ được (điều này còn gây đau đớn cho cha hơn là cơn bệnh). Tình trạng trên kéo dài đến giữa tháng mười, mà chẳng có phương thuốc nào giúp cha dễ chịu hơn. Từ đó cha phải nằm liệt giường, không còn dâng Thánh lễ được, vì cha còn bị rơi vào một thứ bệnh rỉ máu mà như người ta xét đoán do ung nhọt trong ruột. Chứng rỉ máu hay xảy ra, đã chẳng cho cha nghỉ yên chút nào ngày cũng như đêm. Những cơn khó chịu ấy kèm theo sự chán ngấy, đúng hơn là ăn chẳng biết ngon, rồi đến đau lá lách. Người ta đã chữa cha bằng mọi thứ thuốc mà người ta đoán phải có lợi cho cha, nhưng tất cả những thứ bệnh ấy chẳng chịu một loại thuốc nào. Rõ ràng là sức khoẻ của cha rất tàn tạ, suy nhược. Tuy nhiền nhờ tim cha còn tốt, nên ngay những ngày cuối cùng của cơn bệnh, chúng tôi thấy cha ít khi lên cơn sốt. Hy vọng những thứ bệnh đang tấn công cha, sẽ không thể làm cha chết vào chiều thứ sáu 5 giờ trước khi cha tắt thở. Vì lúc đó dường như sức khoẻ tốt hơn, nên cha dùng bữa theo thường lệ. đến bốn hoặc 5 giờ sau, nhờ ơn Chúa, cha chịu phép Bí tích rồi linh hồn về với Chúa cách nhẹ nhàng và thánh thiện. Tôi muốn nói mà không thêm bớt chút nào, đó là cha đã kết thúc cuộc đời như ngọn nến tàn dần.
“Theo tôi, đã từ lâu chẳng những cha ước ao, mà còn dự đoán và biết trước thời điểm định mệnh đó. Vì từ khi tu huynh Georges Berthe [11] và tôi trở lại đây, đến nay được một năm, thì cha đã nói với chúng tôi, cha tin tưởng rằng Chúa đã cho phép chúng tôi trở về để giúp cha trong giờ chết, kẻ giúp về phần thiêng liêng, người về phần xác. Từ đó cha chuẩn bị chết bằng cuộc linh thao thường niên với một tâm hồn sốt sắng mới mẻ, đặc biệt cha xưng tội chung về cả cuộc sống cũng vì ý ấy. Do đó, cha dọn mình kỹ lưỡng và lâu dài; cha xét mình và viết ra cả những chi tiết cùng hoàn cảnh lầm lỗi bé nhỏ nhất. Bởi đấy cha chỉ có thể hoàn thành trong nhiều ngày, luôn luôn với sự xúc động bề trong cũng như bề ngoài khi ăn năn tội, một sự xúc động lâu dài như cuộc đời của cha; mỗi lần xưng tội là mỗi lần cha xúc động. Cha xưng tội hàng ngày theo thói quen bao nhiêu có thể, ít nhất từ khi cha có mặt ở đây [1655]. Trong việc xưng tội, cha tìm ra chất liệu [tội] để xưng với một lương tâm kính sợ Chúa tới mức bối rối, coi là tội những thứ không phải là tội và cha dọn mình rất kỹ lưỡng như tôi biết, vì trong 5 năm 4 ngày[12] tôi được hân hạnh làm người giải tội cho cha (trừ khoảng 11 tháng tôi vắng mặt).
“Hầu hết và có thể nói là tất cả thư từ cha viết trong năm nay [1660] chứng tỏ rõ cha đã dự đoán cái chết gần kề; những ai nhận được thư cha viết trước khi phát cơn bệnh, đều có thể thấy điều đó.