Là quan Tây-Sơn nên sào huyệt của họ ở ngay trên đất Việt. Khi Nguyễn-Ánh tiến đánh thì họ bỏ thuyền chạy lên bộ để bị bắt sống. Phạm-vi hoạt động của họ rất rộng và danh tiếng cướp biển của họ lan xa đến nỗi Nguyễn-Ánh lần đầu bắt được thuyền Tề-ngôi vội-vã sai sứ đem cho Xiêm vương để tuyên dương công-trạng của mình ! Kỹ-thuật thuỷ chiến tinh vi nên Tây-Sơn dùng họ chống đánh thuỷ quân Nguyễn-Ánh. Ngay từ trước khi Nguyễn-Huệ chết, hơn 40 thuyền Tề-ngôi men theo ven biển Bình-Khang, Bình-Thuận vào khuấy rối. Trận đánh cuối cùng dữ-dội nhất ở Trấn-Ninh (1802), thuỷ quân Tây-Sơn gồm toàn các thuyền Tề-ngôi. Đó chỉ vì chiến-tranh càng kéo dài ra, thuỷ quân Tây-Sơn hoặc phải đồng hoá các đơn-vị Tề-ngôi thuyền hoặc phải tổ-chức như họ. Cho nên trong trận Đà-Nẵng, Võ-Tánh bắt được hơn 20 Tàu Ô và tướng của họ — Không phải Tống-binh — mà là Đô-đốc Nguyễn-văn-Ngũ.
Vai trò bổ-túc của họ quan-trọng đến thế nên không phải chỉ vùng Nguyễn-Huệ mới có Tề-ngôi, thuyền Nguyễn-Nhạc cũng phải để cho họ phụ giúp kiểm-soát vùng biển Qui-Nhơn: thuyền Tề-ngôi mà Nguyễn-Ánh bắt được đem khoe với Rama I là ở ngoài khơi Thị-Nại của Nguyễn-Nhạc.
Giữa lúc Tây-Sơn miền Bắc dựa vào Trung-châu Nhĩ-Hà cùng một vài khu-vực khác để nỗ-Iực phát-triển trong những điều-kiện khó khăn thì Nguyễn-Ánh cũng vội vã lo củng-cổ thế-lực ở một vùng đất mới chưa được tận dụng hết khả-năng: đồng-bằng miền Nam.
Có thể nói Nguyễn-Huệ đã dùng hào-quang của mình mà che-chở cho chế-độ, khi phong-trào Tây-Sơn đưa ông lên đài danh-vọng. Bởi chế-độ Tây-Sơn quả đã phải đứng bấp-bênh vì xây dựng trên một mâu-thuẫn. Chúng ta đã nói rằng phong-trào Tây-Sơn xuất-hiện vì sự giao thoa của hai nguồn năng-lực lấy từ hai biến chuyển, một bên trong là tiến-trình Nam-tiến kéo dài mấy trăm năm và một bên ngoài là sự khích động của văn-minh kỹ-thuật Âu Tây đến đất Đại-Việt.
Trong lịch-sử của họ, Tây-Sơn đã xô đổ Nam-hà rồi không tìm được đồng-minh ở bên ngoài, bên trong lại hãnh-diện vì sức mạnh quân-lực, họ không tìm được cách tổ-chức, khai thác những khả-năng của địa-phương để tâm phục dân chúng. Quay ra Bắc-Hà họ lại chui dần vào trong cái rối-rắm mà người trước đã gỡ không ra vì sự cằn-cỗi của đất đai, vì không-khí bảo thủ đã lâu đời khó tẩy phá của sinh-hoạt vua quan, dân chúng.
Chúng ta đã thấy cố gắng dung-hoà giữa Tây-Sơn và cựu thần Lê Nguyễn. Nhưng sự vá-víu ấy quả là tạm bợ. Bên dưới nền tảng chế- độ vẫn chưa có sự hoà-hợp. Nguyễn-Thiếp chẳng hạn, tuy thấy được lối đào-tạo nhân tài theo kiểu trích-cú, tầm-chương không có ích-lợi thiết-thực nên hô-hào phục cổ ? Nhưng cái giọng «tuần tự nhi tiến» quả cũng chỉ là giọng kinh-văn. Không thể đòi hỏỉ ở Nguyễn-Thiếp một khi còn tồn-tại cái không-khí truyền-thống nho giáo để hãnh diện có một Ngô Nho chẳng hạn khẳng-khái nói « đại thần vì nước gánh việc kẻ sĩ vì người tri-kỷ mà chết, đều là nghĩa nên như thế, ngoài ra tôi không biết có sự gì khác». Chính bọn nho-sĩ bảo thủ nầy đi chê cười bọn nho-sĩ cải-cách và riễu-cợt lối học chữ nôm của Quang-Trung chủ trương. Quân tướng Qui-Nhơn cũng không chịu để lôi kéo xa. «Theo Chu-Tử» nhưng phải dịch Kinh Truyện ra chữ nôm, thi cử lời nôm, dụ tướng-sĩ bằng chữ nôm, điếu tang viết bằng lời nôm[33]. Chúng ta đã thấy các bức thư chữ nôm của Nguyễn-Ánh viết ra, nghe lời dụ ban cho tướng-sĩ ở Gia-Định- (1800)[34] nhưng đó chỉ là những phương cách tạm bợ nhất thời đối với họ Nguyễn. Trong khi đó Tây-Sơn phải dùng chữ nôm như phương-tiện diễn đạt ý-tưởng chánh-thức. Có những tờ chiếu, tờ sắc thần[35] bằng chữ Hán trong triều-đại họ là một mỉa-mai cho quá khứ của họ nhưng cái thế cô-lập với ảnh hưởng phương Nam mà từ đó họ xuất phát khiến họ phải đi dần vào trong các không-khí trào cũ.
Sự lưỡng-lự đó làm nên yếu kém của Tây-Sơn. Tất nhiên việc Chiêu-Thống còn ở bên Tàu, việc Nguyễn-Ánh hùng cứ ở Gia-Định ảnh hưởng phần nào vào sự quyết định hợp-tác với Tây-Sơn của các cựu thần Lê-Nguyễn. Nhưng bản chất bấp-bênh của chế-độ Tây-Sơn cũng làm cho người ta ngần-ngại hợp-tác — nếu không nói là chống đối lại.
Triều-đại Tây-Sơn do đó có bản-chất quân phiệt và chỉ có thể tồn-tại được bằng chế-độ quân chính của họ thôi. Sự thực ra, đám võ tướng cũng chứng tỏ được họ là những người kiểu-mẫu của thời-đại mới. Kiêu-căng, quen dùng uy-quyền để đàn áp họ khiến cho những người Anh đến thăm năm 1793 phải phàn-nàn cho đời sống người dân. Nhưng phái bộ Macartney cũng phải công bình mà nhận rằng bọn võ tướng ít hư-hỏng hơn bọn văn quan[36]. Rõ bên dưới sự thanh liêm tương đối của quân-đội là một tình-trạng suy đồi xã-hội mà những sức phản-kháng tích-trữ có thể lợi dụng được.
Nhưng bọn võ tướng từng vào sinh ra tử vốn chịu phục tòng người chỉ huy của họ mà thôi, Nguyễn-Huệ cùng trưởng-thành với họ, với thiên-tư, với tài-năng đã cai-trị họ cũng như thần dân bằng sức mạnh của khiếp phục. Do uy-quyền đó mà Nguyễn-Huệ đã thi-hành những cải-cách quan-trọng có khi động chạm đến cả đời sống tinh-thần của dân-chúng như khi tiếp tục thi-hành « phụng truyền » của Nhạc phá các chùa chỉ để mỗi tầng một mà thôi[37]. Giáo-sĩ Labartette ở Bố-chính, hơn ai hết, có đủ những điều mắt thấy tai nghe để phán-đoán về chế-độ Tây-Sơn. Ông nói « một ông vua dù có dụng ý đến đâu đi nữa đối với tôn-giáo, có lẽ cũng thi-hành một cách nhẹ-nhàng vì những lý lẽ chính-trị. Ông chắc phải sợ bất mãn gây ra loạn lạc. Không bao giờ ông có thể có đủ sức lực và mạnh-mẽ để làm những điều mà bọn này (Tây-Sơn) đã làm. Chỉ trong một khoảng thời-gian ngắn, họ đã quét sạch xứ sở khỏi những lạm dụng nhơ-nhuốc: Không ai dám rục-rịch hết. »[38]
Có lẽ biết đến vai trò — Không chắc quyết định — nhưng quan-trọng của ông trong sự sinh-tồn của triều-đại, nên Quang-Trung, “trước khi mất ngày 29 tháng 7 Nhâm-Tý giờ Dạ-Tý (11-12 giờ khuya 16-9-1792)[39] đã đòi Trần-quang-Diệu về trối-trăn dặn chôn cất cho mau nội trong một tháng rồi dời Kinh về Phượng-Hoàng Trung-đô «Nếu không, quân Gia-Định kéo tới, các người sẽ không có chỗ chôn đâu.»[40]
Đứa bé mới lên 9, «đồ sự du hí», làm gì biết đến sự cần-thiết của những biện-pháp khắt-khe. Cho nên bãi lệnh mang tín bàỉ, bỏ lệnh bắt dân lâu[41], việc làm tuy tiếng là nhân-ái nhưng kỳ thực Tây-Sơn đã lùi một bước dài quan-trọng.
Chế độ phân phong cho anh em đã chứng tỏ nhược điểm ở Trung-Quổc là khi trung-ương không mạnh thì quốc-gia dễ tan rã. Cho nên vào năm 1793 ai cũng biết là Quang-Thuỳ muốn độc-lập với Quang-Toản. Rồi loạn lạc nổi lên, nhất là ở Bắc-hà “Xứ xứ tịnh khởi”, thật sử quan vẽ được trong lời sức phản-động bày tỏ khi Nguyễn-Huệ chết. Ở Gia-Định, tháng 7-1792 người ta còn hoảng-hốt vì «tên giặc ở Huế mạnh hơn bao giờ hết và chắc hẳn sẽ bóp chẹt vua »[42] nhưng cùng tháng năm sau, người ta vui mừng « kẻ thù vẫn còn nhưng lực-lượng họ yếu kém thấy rõ.»[43]
Cho nên Ngọc-Hân than khóc chồng mà như thay cả triều-đại Tây-Sơn khóc chúa tể :
Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
Công-nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao
Mà nay áo vải, cờ đào,
Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình…
Công dường ấy mà nhân dương ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hoá công!
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đồi thân ắt hẳn bỏ lòng tôi ngươi
(AI TƯ VÃN)